Tìm giải pháp quản lý hiệu quả các khu bảo tồn biển

Thứ bảy, 19/10/2019 13:45
(ĐCSVN) - Sau gần 10 năm triển khai thực hiện Quyết định số 742/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, mạng lưới 16 khu bảo tồn biển đang dần được thiết lập và hoàn thiện nhằm bảo vệ các hệ sinh thái biển và nguồn lợi thủy sản. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, nhà khoa học thì các khu bảo tồn biển ở nước ta vẫn chưa hoạt động hiệu quả.

Ông Nguyễn Quang Hùng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản phát biểu tại Hội nghị 

Ngày 19/10, tại Đà Nẵng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) phối hợp với UBND TP Đà Nẵng và Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) tổ chức Hội nghị quốc gia “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý hệ thống khu bảo tồn biển Việt Nam nhằm phát triển bền vững kinh tế biển gắn với tăng trưởng xanh”.

Tham dự Hội nghị có đại diện Bộ NN&PTNN; chi cục thủy sản các tỉnh, thành phố ven biển; ban quản lý các Khu bảo tồn và Vườn quốc gia: Bái Tử Long, Cát Bà, Vịnh Hạ Long, Cồn Cỏ, Cù Lao Chàm, Vịnh Nha Trang, Núi Chúa, Hòn Cau, Côn Đảo, Phú Quốc; các tổ chức quốc tế, phi chính phủ tại Việt Nam: UNDP, IUCN, WWF, TRAFFIC, ENV, MCD; các chuyên gia trên các lĩnh vực có liên quan…

Báo cáo tại Hội nghị cho biết, sau gần 10 năm triển khai Quyết định 742/QĐ-TTg ngày 26/5/2010 của Thủ tướng Chính phủ, mạng lưới 16 khu bảo tồn biển đang dần được thiết lập và hoàn thiện nhằm bảo vệ các hệ sinh thái biển và nguồn lợi thủy sản. Nhờ đó, công tác bảo tồn biển được duy trì tạo điều kiện cho mục tiêu phát triển bền vững ngành thủy sản Việt Nam.

Tuy nhiên theo đánh giá của Bộ NN&PTNN, công tác bảo tồn biển tại Việt Nam còn rất hạn chế do nhiều nguyên nhân. Đặc biệt, việc khai thác hoạt động du lịch, tận diệt hải sản thiếu sự giám sát chặt chẽ từ cơ quan quản lý đã và đang tác động rất lớn gây hệ quả nghiêm trọng đối với thiên nhiên biển, từng bước làm suy giảm chất lượng của các hệ sinh thái dưới nước. Điển hình phải kể đến các địa phương Lý Sơn, Cù Lao Chàm, Phú Quốc là những điểm rất “nóng” và điển hình về việc khu bảo tồn biển (KBTB) bị ảnh hưởng bởi sự phát triển của các cơ sở du lịch. Ô nhiễm môi trường ven biển từ rác thải du lịch - đặc biệt là rác thải nhựa, đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng, các hoạt động nhấn chìm gần khu vực bảo tồn biển... đang trở thành vấn đề cấp bách.

Thông tin tại Hội nghị, ông Nguyễn Quang Hùng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản cho rằng, biển Việt Nam nằm trong vùng có tính đa dạng sinh học (ĐDSH) khá cao, với hơn 11.000 loài sinh vật được phát hiện. Tính đa dạng về cảnh quan tự nhiên và nguồn lợi thủy sản là thế mạnh của Việt Nam trong phát triển ngành kinh tế biển nói chung và kinh tế thủy sản nói riêng và đặc biệt là thiết lập các Khu bảo tồn biển.

Năm 2018, tổng sản lượng thủy sản nước ta đạt khoảng 7,74 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành đạt 9 tỷ USD, góp phần quan trọng đối với phát triển kinh tế đất nước, góp phần cải thiện sinh kế, ổn định đời sống người dân các tỉnh ven biển.

Tuy nhiên, ngành thủy sản Việt Nam cũng đang đối mặt với rất nhiều khó khăn từ sức ép kinh tế như: phát triển du lịch biển, tình trạng khai thác thủy sản bất hợp pháp vẫn còn diễn ra, sử dụng chất nổ, xung điện, hóa chất cấm, chất độc, ngư cụ cấm để khai thác thủy sản, tình trạng ô nhiễm môi trường biển… nhưng chưa quan tâm đến công tác bảo tồn biển đã trực tiếp hoặc gián tiếp làm suy giảm nhanh nguồn lợi thủy sản tự nhiên và suy thoái các hệ sinh thái biển.

Quang cảnh Hội nghị

Trong khi đó, thống kê của Tổng cục thủy sản cho biết, trong 4 năm trở lại đây tổng số vụ vi phạm các quy định quản lý nhà nước liên quan đến công tác bảo tổn biển là 767 vụ.

Thảo luận tại Hội nghị, các chuyên gia cho rằng, con số về số vụ vi phạm các quy định quản lý nhà nước liên quan đến công tác bảo tổn biển trên thực tế còn lớn hơn số vụ mà Tổng cục thủy sản đưa ra. Đặc biệt, số vụ vi phạm tại một số khu bảo tồn biển đang có xu hướng tăng, các hoạt động trong khai thác, lặn bắt những loài hải sản nguy cấp quý hiếm ngay trong vòng nghiêm ngặt, tàu cá sử dụng các nghề lưới kéo, màng, ngư cụ có mắt lưới nhỏ, ngư cụ cấm, sử dụng chất nổ để khai thác trong và xung quanh các khu bảo tồn biển (nhất là trong phân khu nghiêm ngặt) vẫn diễn ra nhưng cơ quan chức năng không có chế tài để xử phạt. Các khu bảo tồn biển chưa có lực lượng kiểm ngư, tuần tra phối hợp không hiệu quả nên tình hình vi phạm pháp luật vẫn diễn ra phổ biến, dẫn đến các loài giá trị cao như hải sâm, tôm hùm, bào ngư, trai tai tượng, cầu gai sọ dừa... bị suy giảm rất lớn, hậu quả càng nghiêm trọng khi thực tế các khu bảo tồn biển chưa có các hoạt động nghiên cứu phục hồi tái tạo các nguồn lợi hải sản.

Nói về những khó khăn trong việc đảm bảo hiệu quả tại các khu bảo tồn biển, nhiều đại biểu cho rằng, các khu bảo tồn biển thiếu nhân lực và kinh phí trong khi phạm vi quản lý rộng, trách nhiệm cao. Tất cả các khu bảo tồn biển đều thiếu cán bộ chuyên sâu về sinh học biển nên công tác nghiên cứu, bảo vệ không phát triển. Cơ sở vật chất không đủ để triển khai các hoạt động bảo tồn như tàu thuyền, trang thiếu bị, không có lực lượng kiểm ngư nên việc kiểm tra, giám sát kém hiệu quả. Ngoài ra, phát triển sự xung đột lợi ích giữa bảo tồn và phát triển kinh tế cũng là vấn đề nảy sinh khó giải quyết.

Trao đổi tại Hội nghị, ông Jacob Brunner, đại diện Tổ chức IUCN cho rằng: Tại Việt Nam, khu vực bảo vệ bảo tồn nghiêm ngặt rất nhỏ, khoảng dưới 1 % diện tích, trong khi đó theo tiêu chuẩn quốc tế là 30% diện tích. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến việc bảo tồn các loài sinh vật. Trong quá trình nghiên cứu, IUCN đã phát hiện một trong những yếu tố làm cản trở sự quản lý hiệu quả tài nguyên sinh vật biển không phải đều bắt nguồn từ sự thiếu thốn nguồn vốn hay cơ sở vật chất mà là do sự không đồng ý của cộng đồng người dân. Có những cộng đồng người dân dù hiểu biết về bảo tồn biển nhưng vẫn không đồng ý tham gia vào khu bảo vệ nghiêm ngặt này, nguyên nhân là do một số ngư dân đã mang tàu thuyền đến đánh bắt bất hợp pháp và chính quyền chưa có hành động nào để ngăn chặn việc đánh bắt trái phép này.

“Công tác bảo tồn biển gặp nhiều thách thức này rất khó nhưng IUCN sẽ đồng hành cùng Việt Nam để thành lập những khu bảo tồn biển một cách hiệu quả. Hiện nay chúng tôi cũng hỗ trợ khu bảo tồn Cù Lao Chàm tăng diện tích từ 0,5% - 10%”- ông Jacob Brunner thông tin thêm.

Còn theo PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, tình trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường biển đã ảnh hưởng trực tiếp đến cơ sở nguồn lợi của các khu bảo tồn biển nước ta. Đặc biệt là ô nhiễm rác thải nhựa, túi ni lông ở nước ta hiện nay rất nghiêm trọng, lượng chất thải nhựa và túi ni lông vẫn ở mức rất cao, chiếm tới 8 – 12% trong chất thải rắn sinh hoạt, lắng đọng và quấn vào các rạn san hô ở các khu bảo tồn biển, từ đó khiến các rạn san hộ của Việt Nam đang biến động theo chiều hướng xấu, điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tính bền vững nghề cá biển nước ta.

Để thực hiện và đạt được những kết quả tốt trong thiết lập, quản lý hệ thống khu bảo tồn biển thời gian tới, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu được đề ra tại Nghị quyết 36-NQ/TW đối với lĩnh vực bảo tồn biển, Bộ NN&PTNT yêu cầu các đơn vị liên quan cần nghiêm túc triển khai thực hiện Luật Thủy sản 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật, đặc biệt là các nội dung liên quan đến quản lý khu bảo tồn biển; ưu tiên bố trí nguồn lực cho các khu bảo tồn biển hoạt động bảo tồn biển; bố trí lực lượng kiểm tra tại các khu bảo tồn biển để thực hiện tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm; chỉ đạo các đơn vị liên quan phối hợp chặt chẽ với Ban quản lý khu bảo tồn biển tăng cường tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm tại các khu bảo tồn biển; xử lý nghiêm các hành vi sử dụng xung điện, chất nổ, hóa chất cấm, chất độc, nghề, ngư cụ cấm sử dụng khai thác hải sản...

Chia sẻ giải pháp để kiểm soát ô nhiễm tại các khu bảo tồn biển hiện nay, PGS.TS Võ Sĩ Tuấn, nguyên Viện trưởng Viện hải dương học Nha Trang, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam cho rằng, phải có sự phát triển hài hòa giữa kinh tế và bảo tồn biển, kiểm soát tình trạng khai thác nguồn lợi quá mức; tính đến sức tải của các hệ sinh thái du lịch.

“Việc cần làm là phải thiết lập các vùng không khai thác sử dụng thực sự trong các Khu bảo tồn biển nhằm duy trì và bảo tồn các loài quý hiếm, duy trì tài nguyên cho khai thác thủy sản bền vững và hoạt động du lịch địa phương. Việc bảo vệ các bãi đẻ, ương giống của các loài nguồn lợi cũng cần được coi trọng và thiết lập. Và trên hết cần có cơ chế và biện pháp thực thi để doanh nghiệp và cộng đồng đồng quản lý và sử dụng tài nguyên”- PGS.TS Võ Sĩ Tuấn đề nghị./.

Đình Tăng

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực