Giao lưu trực tuyến “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội”

Thứ sáu, 16/08/2013 18:40
Mời bạn đọc giao lưu trực tuyến

(ĐCSVN)  Tiến tới Hội nghị Toàn quốc Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết TW 5 (Khóa VIII) "Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", ngày 16/8/2013, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch sẽ tổ chức giao lưu trực tuyến với độc giả, chủ đề “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội”.

 Chương trình có sự tham dự của Lãnh đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
 cùng đại diện các Cục, Vụ, đơn vị chức năng của Bộ

Tham gia chương trình giao lưu và trả lời các câu hỏi của bạn đọc có các vị khách mời: Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Vương Duy Biên; Cục trưởng Cục Hợp tác quốc tế Nguyễn Văn Tình; Cục trưởng Cục Di sản văn hoá, Nguyễn Thế Hùng; Phó Cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn, Đào Đăng Hoàn; Cục trưởng Cục Điện ảnh, Ngô Phương Lan; Cục trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Triển lãm, Vi Kiến Thành; Vụ trưởng Vụ Kế hoạch, Tài chính, Hồ Việt Hà; Vụ trưởng Vụ Văn hoá dân tộc, Hoàng Đức Hậu; Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Lê Thanh Liêm; Phó Cục trưởng Cục Văn hoá cơ sở, Ninh Thu Hương; Vụ trưởng Vụ Gia đình, Trần Tuyết Ánh; Lãnh đạo Viện Văn hoá nghệ thuật Việt Nam.

Mục đích của cuộc giao lưu trực tuyến là nhằm làm rõ hơn những thành tựu, hạn chế sau 15 năm thực hiện Nghị quyết TW 5 (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; nhấn mạnh vai trò của văn hoá với sứ mệnh là nền tảng tinh thần của xã hội. Giao lưu trực tuyến cũng đồng thời đánh giá việc triển khai Nghị quyết và hiệu quả, tác động của Nghị quyết đến cuộc sống; đề xuất phương hướng lãnh đạo, phát triển văn hoá trong thời gian tới phù hợp với bối cảnh quốc tế và thực tế đất nước; qua đó ngày càng khẳng định vững chắc rằng văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội.

Trong chương trình giao lưu trực tuyến, các vị khách mời sẽ trực tiếp giải đáp các câu hỏi do bạn đọc gửi đến.

Mời bạn đọc gửi câu hỏi tham gia chương trình theo địa chỉ: vanhoadcs@yahoo.com;thuhiendcs@gmail.com

Ban Biên tập

Ban Biên tập Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam tặng hoa các vị khách mời trước khi diễn ra chương trình giao lưu

Sau đây là nội dung cuộc giao lưu:

Phó Tổng biên tập Thường trực Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Công Dũng phát biểu đề dẫn:

Kính thưa các vị khách mời, kính thưa quý vị bạn đọc!

Sau Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943. Nghị quyết TW 5 (khóa VII) về "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa có tính chiến lược lâu dài, vừa có tính cương lĩnh hành động trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam thời kỳ đổi mới để thực sự bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, tạo bước ngoặt về tư duy và nhận thức văn hóa.

Qua 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII), có thể khẳng định, nhận thức về vai trò, vị trí văn hóa trong Đảng, trong xã hội được nâng lên rõ rệt. Chủ trương của Đảng về văn hóa được lan tỏa sâu rộng trong đời sống xã hội, góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển của đất nước thời kỳ đầu đổi mới.

Thưa quý vị đại biểu!

Nhân tổng kết 15 năm triển khai, thực hiện Nghị quyết, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp cùng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch tổ chức giao lưu trực tuyến với độc giả với chủ đề “Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII): Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội”, nhằm làm rõ hơn những thành tựu, hạn chế sau 15 năm thực hiện Nghị quyết; nhấn mạnh vai trò của văn hoá với sứ mệnh là nền tảng tinh thần của xã hội; đồng thời đánh giá việc triển khai Nghị quyết và hiệu quả, tác động của Nghị quyết đến cuộc sống; đề xuất phương hướng lãnh đạo, phát triển văn hoá trong thời gian tới phù hợp với bối cảnh quốc tế và thực tế đất nước; qua đó ngày càng khẳng định vững chắc rằng Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực và là hệ điều tiết sự phát triển kinh tế – xã hội.

Tham gia chương trình giao lưu trực tuyến, xin trân trọng giới thiệu Lãnh đạo Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch và lãnh đạo các Cục, Vụ, Viện của Bộ:

- Thứ trưởng Vương Duy Biên.

- PGS.TS Nguyễn Chí Bền, Viện trưởng Viện Văn hoá nghệ thuật Việt Nam.

- Cục trưởng Cục Hợp tác quốc tế Nguyễn Văn Tình.

- Cục trưởng Cục Di sản văn hoá Nguyễn Thế Hùng.

- Phó Cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn Đào Đăng Hoàn.

- Cục trưởng Cục Điện ảnh Ngô Phương Lan.

- Cục trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Triển lãm Vi Kiến Thành.

- Vụ trưởng Vụ Kế hoạch, Tài chính Hồ Việt Hà.

- Vụ trưởng Vụ Văn hoá dân tộc Hoàng Đức Hậu.

- Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế Lê Thanh Liêm.

- Phó Cục trưởng Cục Văn hoá cơ sở Ninh Thu Hương.

- Vụ trưởng Vụ Gia đình Trần Tuyết Ánh.

Về phía Ban Tuyên giáo Trung ương, xin trân trọng giới thiệu:

- Đồng chí Doãn Thị Thuận, Hàm Vụ trưởng Vụ Báo chí – Xuất bản.

- Đồng chí Lê Thị Bích Hồng, Vụ phó Vụ Văn hóa – Văn nghệ.

Về phía Báo điện tử ĐCSVN, xin trân trọng giới thiệu:

- Đồng chí Đào Ngọc Dũng, Tổng Biên tập.

-Đồng chí Nguyễn Công Dũng, Phó Tổng biên tập Thường trực.

-Đồng chí Nguyễn Văn Thắng, Phó Tổng biên tập.

Và các đồng chí Ủy viên Ban Biên tập.

Thay mặt Ban Tổ chức, tôi xin trân trọng cảm ơn Ngân hàng Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xuất Nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) đã giúp đỡ, hỗ trợ chúng tôi thực hiện cuộc giao lưu này.

Sau đây, xin mời Nhà báo Phạm Đức Thái dẫn chương trình giao lưu của bạn đọc với các vị khách mời. Mời quý vị bạn đọc tiếp tục theo dõi và gửi câu hỏi tham gia chương trình giao lưu.

Từ trái sang phải: Tổng Biên tập Báo điện tử ĐCSVN Đào Ngọc Dũng; Thứ trưởng Bộ VH, TT & DL Vương Duy Biên;
Nhà báo Phạm Đức Thái, Ủy viên Ban Biên tập Báo điện tử ĐCSVN

Nhà báo Phạm Đức Thái: Thưa NSƯT Vương Duy Biên, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, xin ông vui lòng cho biết khái quát kết quả sau 15 năm triển khai, thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) trên cả nước?

Thứ trưởng Vương Duy Biên: Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) có tầm quan trọng đặc biệt, vừa giải quyết những vấn đề cấp bách trước mắt, vừa có tính định hướng chiến lược lâu dài về xây dựng và phát triển văn hoá của nước ta, đã mang lại xã hội nhiều nhận thức mới về văn hoá trong bối cảnh mới bước vào nền kinh tế thị trường, đem lại sinh khí cho đời sống văn hoá đất nước; sự nghiệp văn hoá thực sự có bước chuyển mình. Những tiến bộ trên nhiều lĩnh vực trong 15 năm qua đã có sự đóng góp của Ngành văn hoá trong quá trình thực hiện, triển khai Nghị quyết.

Nhìn chung, diện mạo của văn hoá Việt Nam có sự khởi sắc, từ tính đa dạng và nét đặc trưng trong văn hoá của các dân tộc và đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Đời sống văn hoá cơ sở đã có bước phát triển với những phong trào thiết thực; nhận thức về giá trị di sản văn hoá ngày càng nâng cao; bảo tồn, phát huy văn hoá các dân tộc thiểu số được quan tâm, coi trọng; thể chế và thiết chế văn hoá được củng cố, hoàn thiện; xã hội hoá các hoạt động văn hoá gắn với cơ chế thị trường, huy động trí tuệ và nguồn vốn xã hội thúc đẩy văn hoá; giao lưu hội nhập văn hoá quốc tế từng bước mở rộng;

Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có những hạn chế đáng quan ngại như: Sự xuống cấp về đạo đức, lối sống của một bộ phận trong xã hội ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống tinh thần, môi trường văn hoá lành mạnh; hệ giá trị văn hoá truyền thống bị xáo trộn, trong khi những giá trị mới tốt đẹp chưa được khẳng định, mất cân bằng giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; thành tựu sáng tạo văn học, nghệ thuật chưa nổi bật...

Thứ trưởng Vương Duy Biên: Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) có tầm quan trọng đặc biệt.

Nhà báo Phạm Đức Thái: Bạn đọc ở địa chỉ damthuhang@yahoo.com đề nghị  cho biết  rõ vai trò của văn hoá trong sự phát triển gắn với việc triển khai Nghị quyết TW 5 (khoá VIII)?

PGS.TS Nguyễn Chí Bền, Viện trưởng Viện Văn hoá nghệ thuật Việt Nam: Đảng đặt văn hoá vào vị thế của nhân tố liên quan đến phát triển. Văn hoá được xác định là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Xác định văn hoá là nguồn lực nội sinh của phát triển thể hiện sự đổi mới vô cùng quan trọng trong tư duy về văn hoá của Đảng .

Về vấn đề này, năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng viết: "Văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi". Trung thành với tư tưởng của Người, trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã chỉ rõ sự gắn bó mật thiết giữa văn hoá với con người và với sự phát triển xã hội. Ở đây, phát triển vừa có nghĩa là tăng trưởng, lại vừa gắn bó với con người, vì không có sự phát triển nào lại tách rời con người - mà con người vừa là chủ thể sáng tạo văn hoá, vừa là chủ thể hưởng thụ văn hoá. Nói đến phát triển phải tính đến tăng trưởng về kinh tế và lấy GDP như một tiêu chí, song lại phải chú trọng đến chỉ số phát triển con người (HDI) là một tiêu chí không thể thiếu được của phát triển.

Xác định vai trò của văn hoá là mục tiêu và động lực của phát triển chính là nhấn mạnh vai trò của con người với phát triển. Do vậy, phải làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi hoạt động của phát triển, trong mọi hoạt động của phát triển phải suy tính đến yếu tố văn hoá.

Toàn cảnh buổi giao lưu trực tuyến

Nhà báo Phạm Đức Thái: Bạn đọc ở địa chỉ thuhienvrt@gmail.com hỏi: Vấn đề tư tưởng, đạo đức và lối sống là một trong những nhiệm vụ then chốt được xác định tại Nghị quyết TW 5 khoá VIII. Thực trạng văn hoá Việt Nam hiện nay cho thấy liệu những kết quả đã đạt được của nhiệm vụ này có tương xứng với mục tiêu và nhiệm vụ mà Nghị quyết đã đề ra?

PGS. TS Nguyễn Chí Bền – Viện trưởng Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam: Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch đã nỗ lực cùng các Bộ, ngành khác trong 15 năm qua xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về mọi mặt đức - trí - thể - mỹ, trong đó biểu hiện rõ nhất là trên các lĩnh vực: Xây dựng tư tưởng đạo đức, phát triển các ngành nghệ thuật, xây dựng gia đình, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống, phát triển thể chất… thông qua các hoạt động văn hóa phong phú tại các thiết chế văn hóa đa dạng từ Trung ương đến địa phương.

Việc giáo dục đạo đức, xây dựng phẩm chất tốt đẹp cho con người Việt Nam diễn ra trong mọi mặt của đời sống xã hội thông qua phim ảnh, ca nhạc, sân khấu, mỹ thuật, văn nghệ dân gian, phong tục, tập quán, lễ hội… Các loại hình văn hóa nghệ thuật đã cung cấp những món ăn tinh thần quan trọng cho công chúng, một phần đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của xã hội, mặt khác góp phần vào quá trình hoàn thiện nhân cách con người.

Trong những năm qua, sự phát triển mạnh mẽ, nhanh nhạy của các phương thức truyền bá sản phẩm văn hóa, nghệ thuật đến công chúng thông qua truyền hình, triển lãm (mỹ thuật, nhiếp ảnh, bảo tàng, sưu tập tư nhân…), biểu diễn nghệ thuật, văn hóa phẩm… đã có tác dụng to lớn trong việc nâng cao năng lực thẩm mỹ, bồi bổ tâm hồn, giáo dục cái đẹp, định hướng thị hiếu trong công chúng, hướng họ tới những giá trị cao đẹp của Chân - Thiện - Mỹ.

Trong 15 năm qua, các hoạt động văn hoá và sáng tạo nghệ thuật đã đóng góp tích cực vào việc nâng cao đời sống văn hoá tinh thần, xây dựng đạo đức, lối sống con người. Không khí dân chủ trong xã hội được tăng lên. Tự do tín ngưỡng được tôn trọng. Những giá trị văn hóa đạo đức truyền thống được tôn vinh. Tính năng động, tích cực của người dân được phát huy, sở trường và năng lực cá nhân được khuyến khích. Nhiều nét mới trong giá trị văn hóa, chuẩn mực đạo đức đang dần được khẳng định.

PGS. TS Nguyễn Chí Bền: Các hoạt động văn hoá và sáng tạo nghệ thuật đã đóng góp
tích cực vào việc nâng cao đời sống tinh thần, xây dựng đạo đức, lối sống

Không thể phủ nhận là trong xã hội Việt Nam hiện nay đang hình thành những giá trị đạo đức mới, tốt đẹp, thể hiện trong thái độ sống, lối sống, phong cách lao động và học tập, ở tinh thần tự hoàn thiện cá nhân.

Hạn chế lớn nhất trong xây dựng con người những năm vừa qua là sự suy thoái về tư tưởng, xuống cấp về đạo đức, tha hóa về lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, gây bức xúc trong xã hội, ảnh hưởng đến niềm tin của người dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Nghị quyết đã đặt trọng tâm vào “nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh”. Thực tế, sau 15 năm tình hình ngày càng có nhiều biểu hiện đáng lo ngại.

Tình trạng tư tưởng, đạo đức mà chúng ta đang rơi vào là một tình trạng không bình thường, không thể xem thường. Sự suy thoái về đạo đức, lối sống nếu không ngăn chặn kịp thời, chẳng những gây tổn thương nặng nề cho văn hóa, mà còn làm suy giảm sự phát triển kinh tế - xã hội, đe dọa trực tiếp tới sự ổn định và bền vững của chế độ chính trị.

Nhà báo Phạm Đức Thái: Bạn đọc ở địa chỉ nguyenthuhuong@yahoo.com hỏi: Vấn đề đội ngũ sáng tạo văn hoá nghệ thuật được Nghị quyết TW 5 (khoá VIII) đề cập khá kỹ. Sau 15 năm thực hiện, với  tác động của toàn cầu hoá, giao lưu văn hoá thế giới, quan điểm, xu hướng, đội ngũ sáng tạo nghệ thuật đã đạt được những kết quả và hạn chế như thế nào?

Phó Cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn Đào Đăng Hoàn: Trong những năm qua, trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật, các hoạt động sáng tạo đã có bước phát triển mới, đóng góp vào quá trình dân chủ hóa xã hội với sự phong phú, đa dạng của sản phẩm văn hoá.

Sáng tác và hoạt động văn học, nghệ thuật tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp trong thời kỳ chiến tranh cách mạng; gắn bó và nỗ lực phản ánh chân thật cuộc sống; quan tâm nhiều hơn đến đời sống bình dị, nhiều góc cạnh đời thường, vượt qua  những công thức, né tránh trước đây, làm phong phú và sâu sắc thêm chủ nghĩa nhân văn của văn học, nghệ thuật; nhạy bén và mạnh dạn phê phán cái xấu, các biểu hiện biến chất, thoái hóa về nhân cách, đạo đức, lối sống; góp phần cảnh tỉnh, ngăn chặn xu hướng tiêu cực trong đời sống xã hội. Đã có nhiều tìm tòi về nội dung phản ánh, thể nghiệm nhiều phương thức, hình thức biểu đạt mới làm phong phú thể loại và sản phẩm nghệ thuật. Đề tài, chủ đề được mở rộng, đời sống văn nghệ trở nên đa dạng, phong phú, nhiều màu sắc, phản ánh hiện thực mới của đất nước và hội nhập mạnh mẽ với khu vực và thế giới. Đề tài về thanh thiếu niên, nhi đồng, về miền núi và đồng bào các dân tộc được chú ý.

Phó Cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn Đào Đăng Hoàn (ngoài cùng bên trái): Đời sống văn nghệ
trở nên đa dạng, phong phú, nhiều màu sắc, phản ánh hiện thực mới của đất nước

Tiếp cận hiện thực mới, văn nghệ sĩ tích cực đi vào thực tiễn xây dựng xã hội công nghiệp, biểu dương, cổ vũ những nhân tố mới, đi sâu vào các vấn đề đạo đức xã hội, cảnh báo, phê phán sự tha hóa nhân cách, lối sống vô cảm, thực dụng, cơ hội; góp tiếng nói bảo vệ chủ quyền, biển đảo của Tổ quốc…

Cho đến nay, số lượng tác phẩm văn học, nghệ thuật tăng lên rõ rệt, nhưng chưa nhiều tác phẩm đạt đỉnh cao, tương xứng với thành tựu của công cuộc đổi mới; còn thiếu vắng những tác phẩm sáng tạo mới mẻ, có giá trị cách tân đích thực, phản ánh sâu sắc những thay đổi to lớn của xã hội trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đây đó vẫn còn những tác phẩm có nội dung tư tưởng lệch lạc, chưa phản ánh đúng bản chất cuộc sống, nhìn cuộc sống ở mặt đen tối, tiêu cực, thậm chí phủ nhận quá khứ, xuyên tạc sự thật lịch sử, sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Xuất hiện những tác phẩm mang tư tưởng chống đối, phá hoại; một số tác phẩm còn thể hiện sự dễ dãi, chiều theo thị hiếu tầm thường của một bộ phận công chúng...

Một số văn nghệ sĩ còn lúng túng trong tiếp cận và nhận thức những biến đổi và vấn đề mới nảy sinh trong cuộc sống hiện đại, lệch lạc trong khuynh hướng sáng tác và biểu diễn. Xuất hiện một số tác phẩm và sản phẩm bắt chước sống sượng, mô phỏng, chạy theo hình thức và thủ pháp ngoại lai, đánh mất bản sắc dân tộc. Giáo dục, định hướng thẩm mỹ cho giới trẻ chưa được quan tâm đúng mức; chưa chủ động hướng dẫn, cổ vũ sáng tạo tác phẩm có giá trị.

Nhà báo Phạm Đức Thái: Bạn đọc ở địa chỉ  lethanhlich87@yahoo.com hỏi:  Thị trường văn hoá đang có những diễn biến đa chiều, tác động mạnh mẽ tới văn hoá Việt Nam, Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII đã tác động như thế nào tới thị trường văn hoá này?

PGS. TS Nguyễn Chí Bền – Viện trưởng Viện Văn hóa – Nghệ thuật Việt Nam: Tôi nghĩ rằng, sự phát triển của thị trường văn hóa trong những năm gần đây là tất yếu. Văn hóa nào thì kinh tế ấy. Văn hóa là độc lập nhưng không đứng ngoài kinh tế. Khi nói đến thị trường văn hóa đề cập đến hai vấn đề  căn cốt: Quy luật cung cầu, quy luật giá trị và giá cả. Đây là hai quy luật rất cơ bản của thị trường, nhưng ở thị trường văn hóa thì diễn ra không giống như vậy.

 Tác động của thị trường văn hóa rõ ràng đã mang lại các sản phẩm văn hóa rất đa dạng. Con người có thể tiếp nhận văn hóa  trong các nhà hát, các liveshow nhưng cũng có thể tiếp nhận qua băng đĩa. Chủ thể tham gia vào sản xuất các sản phẩm văn hóa trước đây chỉ là Nhà nước thì nay có cả tư nhân. Chúng ta có thể thấy điều này rõ nhất qua điện ảnh.

Cần chú ý là sự cộng hưởng, kế thừa thành tựu của công nghệ  thông tin trong phát triển thị trường văn hóa. Thị trường văn hóa được thành tựu của công nghệ thông tin làm bệ đỡ. 

Nói một cách hình ảnh là nhà quản lý văn hóa trong nền kinh tế thị trường vô cùng khó khăn.

 Khó khăn thứ nhất là trong thị trường thì yếu tố đầu tiên là yếu tố lợi nhuận. Chúng ta có thể dễ hiểu trong thực tế có các cuộc thi hoa hậu, xuất bản sách, các chương trình nghệ thuật chạy theo lợi nhuận mà chưa được quản lý chặt chẽ.

 Khó khăn thứ hai là hệ thống văn bản pháp quy còn có những bất cập chưa thích ứng với nền kinh tế thị trường. Các đầu tư cho văn hóa đôi khi vẫn chỉ là “hảo tâm” của các nhà tài trợ. Chúng ta kêu gọi xã hội hóa nhưng còn thiếu chế tài.

Các biên tập viên đang nhận câu hỏi từ bạn đọc

Nhà báo Phạm Đức Thái: Bạn đọc ở địa chỉ quyenlv@gmail.com  hỏi: Công tác bảo tồn và phát huy, phát triển văn hoá dân tộc của các dân tộc thiểu số được chú trọng như thế nào trước tác động của toàn cầu hoá, thị trường văn hoá thay đổi và sự biến chuyển trong thụ hưởng văn hoá?

Vụ trưởng Vụ Văn hoá dân tộc Hoàng Đức Hậu: Sau khi có Nghị quyết, văn hóa các dân tộc thiểu số được quan tâm đặc biệt. Từ các chủ trương, chính sách chung của Đảng và Nhà nước, ngành Văn hóa đã cụ thể hóa thành các chiến lược, chương trình, dự án để triển khai thực hiện và đạt được những kết quả quan trọng, góp phần bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu, phát triển đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số.

Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch (VHTTDL) đã trình Thủ tướng Chính phủ chọn ngày 19/4 hàng năm là Ngày văn hoá các dân tộc Việt Nam, phê duyệt và triển khai Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số đến năm 2020” và nhiều chương trình, đề án thiết thực hỗ trợ bảo tồn, phát triển văn hoá vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Đã có sự phối hợp giữa Bộ VHTTDL với các Ban, Bộ, ngành Trung ương như Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, Ban Tuyên giáo Trung ương, Ủy ban Dân tộc, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng, Bộ Thông tin và Truyền thông, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số… trong việc thực hiện, triển khai các chương trình phối hợp nhằm giúp đỡ đồng bào giữ gìn, phát triển ngôn ngữ, chữ viết dân tộc thông qua các chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc, lồng tiếng dân tộc trong phim, dịch song ngữ tiếng dân tộc qua các ấn phẩm, sáng tác ca khúc tiếng dân tộc… Sách báo, tạp chí và các ấn phẩm văn hóa phù hợp được thường xuyên tới các bản làng, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.

Nhờ sự kết hợp, lồng ghép các dự án văn hóa với các chương trình, dự án hỗ trợ phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số những năm qua, nhiều giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu của các dân tộc đã kịp thời được bảo tồn và phát huy.

Sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa tập trung thực hiện các dự án trọng điểm đã đạt những kết quả nhất định

Việc điều tra, sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến các giá trị vǎn hóa, vǎn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số được quan tâm đầu tư.

Các thiết chế văn hóa (nhà văn hoá, thư viện, câu lạc bộ…) ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm xây dựng.

Công tác đào tạo đội ngũ trí thức thuộc đồng bào các dân tộc thiểu số và tạo điều kiện để trí thức, cán bộ dân tộc thiểu số trở về phục vụ quê hương được chú trọng.

Bên cạnh đó, việc bảo tồn, phát huy, phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các tộc thiểu số trong thực tế chưa được coi trọng và đầu tư thỏa đáng. Việc phục dựng một số sinh hoạt văn hóa truyền thống chưa có sự thống nhất cao về nhận thức giữa yếu tố truyền thống và hiện đại có thể làm biến dạng, méo mó phần nào giá trị của di sản… Mặt bằng về hưởng thụ văn hóa ở vùng sâu vùng, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn còn có khoảng cách lớn so với những vùng ở miền xuôi, các trung tâm đô thị.

Vụ trưởng Vụ Văn hoá dân tộc Hoàng Đức Hậu: Nhiều giá trị văn hóa truyền thống
tiêu biểu của các dân tộc đã được bảo tồn và phát huy

Nhà báo Phạm Đức Thái: Thưa Cục trưởng Cục Di sản Văn hóa Nguyễn Thế Hùng, di sản văn hoá là lĩnh vực được dư luận và người dân rất quan tâm và cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng Nghị quyết TW 5 khoá VIII đã đề ra, sau 15 năm thực hiện những chuyển biến của lĩnh vực này, liệu đã đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu? Đây là câu hỏi của bạn đọc tại địa chỉ quynhtrangnguyen@gmail.com gửi đến.

Cục trưởng Cục Di sản Văn hóa Nguyễn Thế Hùng: Nhiệm vụ bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa trong 15 năm qua đạt nhiều kết quả to lớn.

Về di sản văn hóa vật thể có 07 di sản Văn hóa và Thiên nhiên Thế giới được UNESCO vinh danh, gồm: Quần thể di tích Huế (1993), Vịnh Hạ Long (1994, 2000), Khu phố cổ Hội An (1999), Khu di tích Mỹ Sơn (1999), Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng (2003), Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long-Hà Nội (2010), Thành Nhà Hồ (2011). Vịnh Hạ Long  được tổ chức New Open World công nhận danh hiệu kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới (2012). 34 di tích được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt. Trên cả nước hiện có hơn 40.000 di tích đã được kiểm kê, trên 10.000 di tích được xếp hạng, trong đó số di tích xếp hạng cấp quốc gia tính đến ngày 31/12/2012  là 3.174.  Từ năm 1998 đến nay đã có thêm 978 di tích được xếp hạng cấp quốc gia và từ khi Luật Di sản văn hóa có hiệu lực, cả nước đã xếp hạng được 7.484 di tích cấp tỉnh/thành.

Với sự đầu tư của Nhà nước, hàng ngàn di tích đã được chống xuống cấp, tu bổ, tôn tạo. Nhiều di tích, đặc biệt là những di tích được UNESCO công nhận là di sản thế giới, có nguồn thu lớn, góp phần phát triển kinh tế-xã hội của địa phương.

Về di sản văn hóa phi vật thể, đã có 05 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại: Nhã nhạc-Âm nhạc Cung đình Việt Nam; Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên; Dân ca Quan họ Bắc Ninh; Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc; Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ và 02 di sản được UNESCO đưa vào Danh sách các di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp: Ca Trù, Hát Xoan; 03 di sản tư liệu thuộc chương trình Ký ức thế giới của UNESCO: Mộc bản triều Nguyễn (2009); Bia đá các khoa thi tiến sĩ triều Lê-Mạc (1442-1779) tại Văn Miếu (Hà Nội) (2010) và Mộc bản kinh Phật chùa Vĩnh Nghiêm (2012) được công nhận là di sản tư liệu khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Đến nay, 35 di sản văn hóa phi vật thể đã được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Thông qua triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa đã hình thành  một ý thứcquan niệm đúng cho các địa phương, là việc hỗ trợ từ ngân sách trung ương chỉ mang tính định hướng, còn việc thực hiện và tìm các nguồn lực để tu bổ, tôn tạo, phát huy giá trị các di tích trên địa bàn là trách nhiệm của các cấp chính quyền, của các tổ chức, đoàn thể và của cộng đồng dân cư.

Xét về phương diện hiệu quả xã hội, những di tích được hỗ trợ đầu tư ở các mức độ khác nhau đã góp phần quan trọng vào việc giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng; quảng bá văn hóa Việt Nam ra nước ngoài, nâng cao vị thế đất nước, con người Việt Nam trên trường quốc tế. Trong số các di tích được tu bổ, có nhiều di tích gắn với các thiết chế tôn giáo, tín ngưỡng, thể hiện chính sách nhất quán tôn trọng tự do tôn giáo, tín ngưỡng của Đảng.

Xét trên phương diện hiệu quả kinh tế, nhiều di tích sau khi được tu bổ, tôn tạo đã trở thành những sản phẩm du lịch-văn hóa hoàn chỉnh có tính đặc thù, tạo  những điểm, tuyến du lịch hấp dẫn, có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế du lịch, từng bước làm thay đổi cơ cấu kinh tế của địa phương, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân địa phương.

 Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hoá còn một số yếu kém:

Còn lúng túng trong việc xử lý một cách hài hoà giữa bảo tồn và phát triển trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa. Hiện tượng lấn chiếm đất đai di tích, thương mại hóa hoạt động lễ hội ở di tích, đào bới, mua bán trái phép cổ vật… chưa được giải quyết triệt để.

Việc bảo tồn di sản văn hóa chưa được triển khai theo một quy hoạch, kế hoạch dài hạn nên thường bị động. Chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa quy hoạch bảo tồn di tích với quy hoạch, dự án phát triển kinh tế-xã hội của các ngành khác trên cùng địa bàn, nhất là đối với các di tích quan trọng, nên chưa tạo được cơ sở vật chất, môi trường văn hóa và sinh thái đồng bộ, có chất lượng ở di tích để phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân.

Việc sưu tầm, bảo tồn và phát huy kho tàng di sản văn hóa phi vật thể phong phú và đa dạng của 54 dân tộc anh em chưa thực sự bao quát. Chính sách đối với nghệ nhân tuy được quan tâm, nhưng chưa được triển khai kịp thời.

 
Cục trưởng Cục Di sản Văn hóa Nguyễn Thế Hùng: Nhiệm vụ bảo tồn, phát huy
giá trị di sản văn hóa trong 15 năm qua đạt nhiều kết quả to lớn

Nhà báo Phạm Đức Thái: Bạn đọc ở địa chỉ tuannguyen@gmail.com hỏi: Hệ thống cơ sở vật chất, thiết chế văn hoá đã có sự biến đổi như thế nào qua 15 năm thực hiện Nghị quyết TW 5 (khoá VIII) ?

Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính Hồ Việt Hà: Các thiết chế văn hóa từ Trung ương đến địa phương như: các trung tâm văn hoá-thông tin, rạp hát, câu lạc bộ, rạp chiếu bóng, các đoàn nghệ thuật, các khu di tích lịch sử -văn hoá, bảo tàng, thư viện, cửa hàng sách báo, khu vui chơi giải trí… sau một thời gian lúng túng trong hoạt động khi mới chuyển đổi cơ chế, gần đây, cơ sở vật chất đã được tăng cường một bước; một số công trình văn hóa như thư viện, bảo tàng… với quy mô lớn, hình thức kiến trúc đẹp đã được xây dựng.

Một bộ phận quan trọng các thiết chế nói trên đã tìm ra những phương thức hoạt động mới có hiệu quả; bước đầu ứng dụng công nghệ thông tin, phương tiện kỹ thuật hiện đại vào trong công tác quản lý, xử lý thông tin, nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân về văn hoá, nghệ thuật. Đơn cử như một mạng lưới thư viện rộng khắp đã được hình thành từ Trung ương tới địa phương gồm: Thư viện Quốc gia Việt Nam, 63 thư viện cấp tỉnh, 649 thư viện cấp huyện, trên 2.400 thư viện cấp xã và 19.852 phòng đọc sách/tủ sách cấp xã và cơ sở.

Mới đây nhất, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 88/QĐ-TTg ngày 9/01/2013 về việc phê duyệt Đề án “Quy hoạch và nâng cấp, xây mới các công trình văn hóa (nhà hát, rạp chiếu phim, nhà triển lãm văn học nghệ thuật) giai đoạn 2012-2020”. Mục tiêu của Đề án là hoàn thiện hệ thống các công trình văn hóa nhằm đáp ứng nhu cầu về đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân, đặc biệt các khu vực vùng sâu, vùng xa có điều kiện kinh tế khó khăn; từng bước đầu tư nâng cấp, xây dựng mới các công trình văn hóa có chất lượng cao, hiện đại, tầm cỡ khu vực.

Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính Hồ Việt Hà: Cơ sở vật chất các thiết chế văn hóa
từ Trung ương đến địa phương đã được tăng cường một bước

Nhà báo Phạm Đức Thái: Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hoá có bước chuyến biến rõ nét sau 15 năm thực hiện Nghị quyết, nhưng liệu những kết quả đạt được có tương xứng với yêu cầu và bối cảnh? Đây là câu hỏi của bạn đọc gửi đến từ địa chỉ thanhtam_1973@yahoo.com. Xin mời Cục trưởng Cục Hợp tác quốc tế Nguyễn Văn Tình trả lời câu hỏi này.

Cục trưởng Cục Hợp tác quốc tế Nguyễn Văn Tình: Giao lưu văn hóa với nước ngoài từng bước được mở rộng cùng với quá trình đa phương hoá, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế của Nhà nước ta. Hoạt động giao lưu của các đoàn biểu diễn nghệ thuật và trao đổi sách báo, phim ảnh, triển lãm, nghiên cứu, đào tạo… giữa nước ta với các nước trong khu vực và thế giới ngày càng được đẩy mạnh.

Nhiều hiệp định văn hóa với các nước và tổ chức quốc tế, các điều ước quốc tế song phương và đa phương về di sản văn hoá, quyền tác giả và quyền liên quan đã được ký kết.

Nhiều dự án về hợp tác văn hóa được thực hiện có hiệu quả. Chúng ta có nhiều cơ hội tiếp xúc rộng rãi hơn với văn hóa thế giới và chọn lọc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời giới thiệu với nhân dân các nước những giá trị tốt đẹp, độc đáo của văn hóa Việt Nam.

Nhiều hoạt động hợp tác, giao lưu văn hóa quốc tế trên quy mô lớn đã được tổ chức ở Việt Nam và nước ngoài gây được tiếng vang và tạo ấn tượng tốt đẹp trong lòng bè bạn về truyền thống văn hoá nghệ thuật Việt Nam.

Các triển lãm mỹ thuật nhiếp ảnh quốc tế tại Việt Nam, và các triển lãm của Việt Nam ở nước ngoài thời gian qua cũng đã làm tốt việc giới thiệu văn hóa, đất nước, con người Việt Nam và bạn bè quốc tế, góp phần vào sự hiểu biết lẫn nhau và tăng cường tình hữu nghị giữa Việt Nam và các nước trên thế giới.

Đây là những chuyển đổi tích cực, rõ nét so với trước khi có Nghị quyết

Tuy nhiên, giao lưu văn hoá với nước ngoài còn hạn chế do thiếu nguồn lực, đặc biệt là kinh phí. Còn thiếu những biện pháp giúp đồng bào ở nước ngoài tìm hiểu về văn hoá dân tộc.

Cục trưởng Cục Hợp tác quốc tế Nguyễn Văn Tình: Giao lưu văn hóa với
nước ngoài từng bước được mở rộng và ngày càng đẩy mạnh

Nhà báo Phạm Đức Thái: Một bạn đọc ở địa chỉ donganh81@yahoo.com cho rằng: Thể chế hoá các chủ trương chính sách về văn hoá là bước quan trọng để đưa Nghị quyết vào cuộc sống, góp phần để văn hoá trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, tuy nhiên việc thể chế hoá, chủ trương chính sách về văn hoá hiện nay còn chậm? Xin được chuyển câu hỏi này tới Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế Lê Thanh Liêm.

Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế Lê Thanh Liêm: Kể từ khi Nghị quyết được ban hành năm 1998 đến tháng 12/2012, Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ VHTTDL) đã tập trung xây dựng, ban hành theo thẩm quyền và trình các cấp có thẩm quyền ban hành hệ thống bao gồm 630 văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các hoạt động trên lĩnh vực văn hóa tương đối đồng bộ và có giá trị pháp lý cao, tạo một hành lang pháp lý để ngành Văn hóa hoạt động một cách thuận lợi. Đồng thời đã kịp thời bổ sung, sửa đổi các văn bản luật cho phù hợp với tình hình mới (đối với các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá, điện ảnh, sở hữu trí tuệ…) đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế.

Hệ thống thể chế văn hóa ngày càng được hoàn thiện, về căn bản đã bảo đảm được sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Hàng loạt văn bản pháp luật đã được ban hành nhằm điều chỉnh và tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động văn hóa nghệ thuật phù hợp với tình hình mới

Một loạt Chiến lược phát triển cho từng lĩnh vực đã được xây dựng. Đó là các chiến lược do Thủ tướng Chính phủ ban hành, bao gồm: Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020 (ban hành năm 2009), Chiến lược phát triển thể dục, thể thao Việt Nam đến năm 2020 (ban hành năm 2010), Chiến lược phát triển du lịch đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (ban hành năm 2011), Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (ban hành năm 2012). Hiện nay, Chiến lược phát triển ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam, Chiến lược văn hóa đối ngoại đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đang được triển khai xây dựng.

Nhà nước và ngành Văn hóa cũng đã ban hành nhiều chế độ, chính sách đặc thù cho phát triển sự nghiệp văn hoá, như chính sách về hoạt động và hưởng thụ văn hoá, nhất là đối với vùng đồng bào các dân tộc, vùng sâu, vùng xa; chính sách về bảo tồn di sản văn hóa dân tộc; những chính sách khuyến khích và tôn vinh hoạt động sáng tạo (Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước, danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú, Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú); chế độ ưu đãi đặc thù đối với nghệ sĩ, học sinh các trường văn hóa nghệ thuật…

Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý văn hóa và công tác quản lý nhà nước trên mặt trận văn hóa cũng được kiện toàn và củng cố một bước. Đã có cố gắng nâng cao năng lực quản lý, bước đầu chú trọng đổi mới phương thức quản lý, nhằm thúc đẩy sự phát triển và hạn chế những tiêu cực trong đời sống văn hoá, văn nghệ.

Sau 15 năm, Nghị quyết đã đi vào cuộc sống, với hệ thống pháp luật và chính sách ngày càng được hoàn thiện hơn đã tác động sâu rộng đến đời sống của quần chúng nhân dân, tích cực bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của nhân dân; đồng thời cũng tạo điều kiện cho nhân dân - chủ thể chính của văn hóa tham gia tích cực vào hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hóa.

n cạnh đó, việc xây dựng thể chế văn hóa còn nhiều hạn chế, chưa đồng bộ và chưa hiệu quả. Các văn bản pháp luật về văn hóa nhiều khi chưa bắt kịp với tình hình thực tiễn, việc tổ chức thực hiện còn yếu, nên nhiều văn bản quy phạm pháp luật về văn hóa chưa thực sự đi vào cuộc sống.

 
Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế Lê Thanh Liêm: Việc xây dựng thể chế
văn hóa còn nhiều hạn chế, chưa đồng bộ và chưa hiệu quả

Nhà báo Phạm Đức Thái: Bạn đọc có địa chỉ xuancuongtn@yahoo.com cho rằng: Nguồn lực hạn chế là một trong những yếu tố cơ bản cản trở Nghị quyết TW 5 khoá VIII đi vào cuộc sống. Xin Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính Hồ Việt Hà cho  ý kiến về vấn đề này?

Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính Hồ Việt Hà: Thực hiện Nghị quyết, Nhà nước đã tăng cường các nguồn lực đầu tư vào lĩnh vực văn hóa bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực văn hoá. Tuy nhiên, đến nay nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực văn hóa vẫn chủ yếu là nguồn ngân sách Nhà nước. Đóng góp từ các thành phần kinh tế, nguồn lực từ xã hội hóa còn thấp so với nhu cầu phát triển văn hóa hiện nay. Tính tới năm 2011, tổng chi ngân sách Nhà nước dành cho lĩnh vực văn hóa đạt khoảng 1,8% tổng chi ngân sách của cả nước. Ngân sách này bao gồm chi thường xuyên và đầu tư qua các Bộ và địa phương

Lĩnh vực văn hóa là một trong số ít các lĩnh vực được cân đối ngân sách đảm bảo tỷ lệ trong tổng chi ngân sách hàng năm. Thực hiện Kết luận của Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, tăng đầu tư cho lĩnh vực văn hóa (đến năm 2010 ít nhất là 1,8% tổng chi ngân sách nhà nước); vốn ngân sách nhà nước trong lĩnh vực văn hóa thông tin giai đoạn 2006-2010 đạt khoảng 37.670 tỷ đồng, bằng 1,8 lần so với giai đoạn 2001-2005, tỷ trọng đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước cho lĩnh vực văn hóa thông tin luôn đạt trên 1,9% tổng chi ngân sách; trong đó có những năm đã cân đối với tỷ trọng trên 2,1%. Nguồn ngân sách nhà nước đảm bảo cân đối kinh phí để thực hiện những mục tiêu lớn thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa giai đoạn 2006-2010.

Mặc dù Nhà nước đã có chủ trương tăng mức đầu tư cho văn hóa đến năm 2010 đạt 1,8% ngân sách nhà nước, nhưng mức đầu tư này tại phần lớn các địa phương đều chưa đạt được. Đặc biệt, đối với các tỉnh vùng sâu, vùng xa tỷ lệ chi cho văn hóa chỉ đạt từ 1-1,3% tổng chi ngân sách địa phương (tỉnh Long An chỉ đạt 0,81% tổng chi ngân sách địa phương). Hơn nữa, cơ sở tính toán tỷ lệ chi cho văn hóa chưa được hướng dẫn, quy định gồm những khoản chi nào nên khi thống kê chỉ tiêu này tại các địa phương thiếu tính thống nhất. Định mức phân bổ chi cho sự nghiệp văn hóa thông tin cho vùng dân tộc chỉ gấp đôi vùng đô thị, nhưng một xã miền núi dân số chỉ bằng 1/10 dân số đồng bằng đô thị, mức chi lại gấp 5-8 lần. Vì vậy, ảnh hưởng đáng kể đến nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người.

Nguồn vốn đầu tư xây dựng các công trình văn hóa (nhà hát, rạp chiếu phim, triển lãm văn hóa nghệ thuật...) chủ yếu được cung cấp từ nguồn ngân sách nhà nước. Hầu hết các công trình văn hóa hiện nay do Ngân sách Nhà nước đầu tư xây dựng. Nhiều công trình văn hóa được sử dụng cho các hoạt động mang tính tổng hợp của thiết chế văn hóa cơ sở nên không phát huy được công năng và chất lượng hoạt động không cao.

Do ngân sách nhà nước hạn hẹp, các địa phương lại phải ưu tiên thực hiện các nhiệm vụ cấp bách hơn (phát triển kinh tế, y tế, giáo dục, ... ) nên các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương đầu tư không nhiều cho xây dựng các công trình văn hoá. Một số tỉnh, thành phố chưa quan tâm đúng mức cho việc đầu tư xây dựng các công trình văn hóa, ngoại trừ các công trình văn hóa đã được xây dựng trong những năm 80 của thế kỷ trước.

Công tác xã hội hóa đầu tư các công trình văn hóa mặc dù đã được nhận thức ở các cấp, ngành và cụ thể hóa bằng các chủ trương, chính sách của Trung ương và địa phương. Tuy nhiên, hệ thống các cơ chế, chính sách vẫn chưa đồng bộ, chưa cụ thể đối với các công trình văn hóa, nên khó đi vào cuộc sống và chưa thực sự hấp dẫn các thành phần kinh tế huy động các nguồn lực đầu tư vào các công trình văn hóa nói chung và các công trình nhà hát, rạp chiếu phim, triển lãm văn hóa nghệ thuật nói riêng.

Chính phủ đã có Nghị định số 69/2008-NĐ-CP ngày 30 tháng 5 năm 2008 về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với lĩnh vực văn hoá. Tuy nhiên, do khó khăn về đất đai và chưa có những cơ chế, chính sách cụ thể đối với lĩnh vực văn hóa, nên việc thu hút các thành phần kinh tế liên doanh liên kết với các đơn vị sự nghiệp công lập về văn hóa trên cơ sở vật chất của đơn vị vẫn chưa thực sự đi vào cuộc sống và hầu như chưa triển khai được.

Chưa có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức tư nhân đầu tư, tài trợ cho lĩnh vực văn hóa. Các biện pháp cụ thể để gây quỹ, tài trợ từ nguồn lực xã hội cho văn hóa nghệ thuật trong nền kinh tế thị trường chưa được chú ý và triển khai đúng mức.

Đây thực sự là hạn chế về nguồn lực phát triển văn hoá theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII.

Nhà báo Phạm Đức Thái: Về lĩnh vực gia đình, bạn đọc tại địa chỉ thanhhuyen@gmail.com cho biết: Qua theo dõi tổng kết của các tỉnh thành, hàng năm số lượng các gia đình, đoàn thể được công nhận văn hóa không ngừng tăng, nhưng thực tế tỷ lệ ly hôn, bạo hành trong gia đình, tệ nạn xã hội... cũng ngày một tăng.  Xin được chuyển ý kiến này tới Vụ trưởng Vụ Gia đình Trần Tuyết Ánh.

Vụ trưởng Vụ Gia đình Trần Tuyết Ánh: Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực gia đình chưa tương xứng và chưa vững chắc, chưa đủ mạnh để tác động có hiệu quả đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Việc quán triệt thực hiện Chỉ thị 49 - CT/TW, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, các chính sách đối với gia đình và công tác gia đình chưa được rộng khắp và thường xuyên, đặc biệt là ở cấp huyện và xã; việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ của Chỉ thị 49-CT/TW và mục tiêu của Chiến lược xây dựng gia đình chưa gắn với kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội hàng năm;

Chưa ưu tiên tập trung nguồn lực cho công tác xây dựng gia đình; chưa gắn công tác xây dựng gia đình với công tác phát triển cộng đồng. Việc xác định mô hình, tiêu chí gia đình văn hóa chưa rõ.

Những tồn tại của gia đình chậm được khắc phục, tình trạng ly hôn, ly thân, sống thử, không đăng ký kết hôn, tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình, xuất hiện ngày càng nhiều; tình trạng tảo hôn, bạo lực gia đình vẫn còn xảy ra; tình trạng buôn bán phụ nữ, xâm hại tình dục trẻ em diễn biến phức tạp; tình trạng phụ nữ lấy chồng nước ngoài qua môi giới không giảm; xuất hiện vấn đề tình dục và hôn nhân đồng giới. Việc xử lý các vấn đề liên quan đến gia đình chưa nghiêm và thiếu sự thống nhất giữa các địa phương, đơn vị... Nhiều giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của gia đình như hiếu nghĩa, thuỷ chung, kính trên nhường dưới đang có biểu hiện xuống cấp

Những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên:

- Về khách quan: Mặt trái của cơ chế thị trường, của hội nhập quốc tế đã tác động làm băng hoại, phá vỡ giá trị văn hóa dân tộc, trong đó có vấn đề gia đình truyền thống.

- Về chủ quan: Trong khi tập trung vào nhiệm vụ kinh tế, nhận thức của một số cấp ủy Đảng, một  bộ phận cán bộ lãnh đạo chính quyền, ngành, đoàn thể về vị trí, vai trò của công tác xây dựng gia đình còn hạn chế; chưa quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác gia đình; chưa gắn công tác xây dựng gia đình với xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội địa phương; cơ chế phối hợp giữa các cấp ủy Đảng với các ban, ngành, đoàn thể từ Trung ương đến cơ sở trong việc thực hiện Chỉ thị chưa đồng bộ, chặt chẽ và thường xuyên. Công tác truyền thông và giáo dục về đời sống gia đình chưa thường xuyên, liên tục. Tổ chức bộ máy làm công tác gia đình còn nhiều bất cập, cán bộ làm công tác gia đình còn thiếu, trình độ hạn chế, đặc biệt ở tuyến xã… Công tác giáo dục trước và sau hôn nhân, việc cung cấp các kiến thức làm cha mẹ, các kỹ năng ứng xử của các thành viên trong gia đình chưa được coi trọng. Nhiều gia đình do quá tập trung làm kinh tế đã xem nhẹ việc chăm sóc, giáo dục và bảo vệ các thành viên, đặc biệt là trẻ em và người cao tuổi.

 
Vụ trưởng Vụ Gia đình Trần Tuyết Ánh: Những thành tựu đạt được
trong lĩnh vực gia đình chưa tương xứng và chưa vững chắc

Nhà báo Phạm Đức Thái: Có hay không bệnh thành tích trong triển khai phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá và cụ thể là việc xét duyệt gia đình văn hóa, thôn xóm và đơn vị văn hóa? Câu hỏi này của bạn đọc huongtra_hl@gmail.com , xin được gửi tới Phó Cục trưởng Cục Văn hóa Cơ sở Ninh Thu Hương?

Phó Cục trưởng Cục Văn hoá cơ sở Ninh Thu Hương: Qua hơn 10 năm thực hiện, Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống  văn hóa (TDĐKXDĐSVH) đã góp phần quan trọng nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển. Thông qua các hoạt động tuyên truyền, giáo dục văn hóa, các hoạt động chỉ đạo triển khai thực hiện Phong trào, nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể, các tầng lớp nhân dân về văn hóa, về trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa trong giai đoạn mới được nâng lên.

Nhiều giá trị văn hóa, các quy định pháp luật và quy chế, quy tắc ứng xử văn hóa ngày càng thâm nhập vào đời sống, đã góp phần quan trọng vào việc tạo dựng môi trường sống lành mạnh cho cộng đồng dân cư, cho mỗi gia đình và cá nhân. Nhân dân cả nước tham gia thực hiện Phong trào ngày càng đông đảo; đóng góp vào việc xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng kinh tế-xã hội, các thiết chế và hoạt động văn hóa, thể thao ở cơ sở. Mô hình, điển hình tiên tiến về xã hội hóa văn hóa xuất hiện ngày càng nhiều, tạo nên sự đa dạng về nội dung và phương thức tổ chức xây dựng đời sống văn hóa và phát huy sức sáng tạo văn hóa của nhân dân trên các địa bàn.

Các nội dung cụ thể của Phong trào đã có tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế và văn hóa-xã hội. Truyền thống đoàn kết và đạo lý dân tộc được phát huy trở thành nội lực giúp nhau “Xóa đói giảm nghèo”, “Đền ơn đáp nghĩa”. Xây dựng con người về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, nếp sống được chú trọng. Vai trò, vị trí của gia đình và cộng đồng được nâng lên; tình làng, nghĩa xóm được củng cố; thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội có tiến bộ ở nhiều nơi. Nhiều giá trị văn hóa dân tộc được bảo tồn, phát huy làm phong phú đời sống văn hóa của nhân dân ở cơ sở; hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở tiếp tục được duy trì, phát triển, góp phần nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của người dân.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Phong trào TDĐKXDĐSVH ở nhiều nơi còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém, đó là:

- Phong trào phát triển chưa đồng đều giữa các khu vực, vùng miền. Số lượng khu dân cư ở vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc và các đơn vị doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia thực hiện phong trào còn chiếm tỷ lệ thấp. Một số nội dung cơ bản của phong trào chưa được thực hiện đầy đủ, hoặc mới chỉ dừng lại ở việc phát động và ban hành văn bản.

- Chất lượng của các phong trào cụ thể trong Phong trào TDĐKXDĐSVH còn nhiều yếu kém. Việc bình xét công nhận gia đình văn hóa nhiều nơi chưa chặt chẽ; thiếu công khai, dân chủ; chưa bám sát tiêu chuẩn. Tổ chức biểu dương, tôn vinh gia đình văn hóa chưa chu đáo, khen thưởng chưa kịp thời. Việc gắn biển gia đình văn hóa tràn lan, hình thức, gây phản cảm trong dư luận, còn có hiện tượng công nhận gia đình văn hóa vượt cấp, không theo quy định của Luật Thi đua - Khen thưởng.

- Kết quả công nhận các danh hiệu văn hóa chưa thật đảm bảo về chất lượng, vẫn còn nhiều nơi xem nhẹ chất lượng, chưa theo qui định, hướng dẫn. Phong trào chưa thực sự tác động đến tư tưởng, đạo đức, lối sống của người dân. Tỷ lệ gia đình đạt chuẩn văn hóa cao, nhưng nếp sống văn hóa-văn minh đô thị chậm chuyển biến. Các thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội vẫn còn tồn tại khá cao.

- Nhiều làng (thôn, ấp, bản…) văn hóa; tổ dân phố văn hóa sau khi được công nhận, có biểu hiện buông lỏng công tác chỉ đạo, quản lý, chưa chú trọng tuyên truyền vận động nhân dân tiếp tục phấn đấu giữ vững danh hiệu, dẫn đến giảm sút về chất lượng.

 
Phó Cục trưởng Cục Văn hoá cơ sở Ninh Thu Hương: Kết quả công nhận
các danh hiệu văn hóa chưa thật đảm bảo về chất lượng

Nhà báo Phạm Đức Thái: Thưa Cục trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Triển lãm Vi Kiến Thành, trong 15 năm qua, Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm được đánh giá là lĩnh vực hội nhập quốc tế nhanh, xã hội hóa cao, phát triển trong thế ổn định đi lên hội nhập với thế giới, xin ông cho biết rõ hơn về nhận định này? Câu hỏi của bạn đọc tại địa chỉ thaophuong@gmail.com.

Cục trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Triển lãm Vi Kiến Thành: Nhìn chung, các hoạt động Mỹ thuật, Nhiếp ảnh có tính chất chuyên nghiệp hơn, có bước phát triển mới, số lượng tác phẩm có giá trị đạt giải thưởng khu vực, quốc gia tăng lên đáng kể, công tác lý luận phê bình có chuyển biến tích cực, hoạt động phổ biến, sáng tác tác phẩm đa dạng, phong phú. Các hoạt động phong trào có bước phát triển sâu rộng, thu hút ngày càng đông các nghệ sĩ, họa sĩ, tầng lớp nhân dân tham gia sáng tác, phục vụ có hiệu quả các sự kiện chính trị, góp phần định hướng tư tưởng, thẩm mỹ của nhân dân.

Các triển lãm mỹ thuật, nhiếp ảnh có quy mô quốc gia và quốc tế được tổ chức đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của toàn ngành, một số triển lãm có quy mô lớn như: Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc (05 năm 1 lần); Triển lãm 10 năm điêu khắc (10 năm 1 lần); Triển lãm ảnh Nghệ thuật toàn quốc (02 năm 1 lần). Ngoài các triển lãm toàn quốc định kỳ, Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm, Hội Mỹ thuật Việt Nam, Hội nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam, các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch còn phối hợp tổ chức nhiều triển lãm Mỹ thuật, Nhiếp ảnh thu hút sự tham gia đông đảo của các nghệ sĩ, tạo ra nhiều tác phẩm phục vụ tốt đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Nhiều tượng đài được xây dựng ở các địa phương có giá trị mỹ thuật cao. Các triển lãm công bố tác phẩm ở nước ngoài và khu vực được đánh giá cao, góp phần giới thiệu văn hóa, đất nước, con người Việt Nam với bạn bè quốc tế.

 
Cục trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Triển lãm Vi Kiến Thành: Các hoạt động
Mỹ thuật, Nhiếp ảnh đã có tính chất chuyên nghiệp hơn

Tuy nhiên, Hoạt động Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm có bước phát triển nhưng chưa đồng bộ giữa các khâu: sáng tác, phổ biến, tiêu thụ, lưu giữ các tác phẩm có giá trị cao chưa nhiều, công tác lý luận phê bình còn hạn chế, hoạt động phổ biến tác phẩm, chế độ đãi ngộ, đầu tư còn hạn chế, thiếu tính động viên, khuyến khích. Mặt trái của nền kinh tế thị trường tác động vào lĩnh vực Mỹ thuật, Nhiếp ảnh như: xuất hiện nhiều sản phẩm và dịch vụ văn hóa chất lượng chưa cao, vấn nạn tranh giả, tranh nhái ảnh hưởng xấu đến đời sống tinh thần của xã hội cũng như thị hiếu thẩm mỹ của nhân dân. Trong đó tập trung vào một số vấn đề như: Triển lãm không xin cấp giấp phép, Triển lãm không đúng với nội dung xin phép, xâm phạm bản quyền tác giả, buôn bán tác phẩm giả mạo, xây dựng tượng đài không thực hiện đúng các bước quy định.

Nhà báo Phạm Đức Thái: Quan tâm đến vấn đề đời sống của văn nghệ sĩ, một bạn đọc tại địa chỉ minhhai_1982@yahoo.com muốn hỏi Phó Cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn Đào Đăng Hoàn, sau 5 năm ban hành Nghị quyết 23-NQ/TW, có thể thấy rằng, chính sách, chế độ đãi ngộ cho đội ngũ văn nghệ sĩ vẫn còn nhiều bất cập. Vậy trong thời gian tới, vấn đề này sẽ được khắc phục như thế nào?

Phó Cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn Đào Đăng Hoàn: Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã xây dựng Đề án triển khai thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị về “tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”, trong đó có 2 đề án liên quan đến chế độ, chính sách đối với người hoạt động trong lĩnh vực NTBD, như sau:

- Xây dựng và rà soát các chế độ chính sách đối với hoạt động văn học nghệ thuật và văn nghệ sỹ; chế độ tài trợ, đặt hàng đối với các tác phẩm văn học nghệ thuật; chính sách khuyến khích sáng tác trong các hoạt động văn học nghệ thuật được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 316/QĐ-TTg ngày 01 tháng 3 năm 2011.

 - Xây dựng chính sách thẩm định, quảng bá, thuế ưu đãi... đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật trong nước; văn hoá phẩm của Việt Nam đưa ra nước ngoài và giới thiệu tinh hoa văn học, nghệ thuật của thế giới vào Việt Nam; chính sách sưu tầm, chỉnh lý, bảo tồn, phát huy, quảng bá di sản văn học, nghệ thuật dân tộc và phát triển văn học, nghệ thuật quần chúng được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 645/QĐ-TTg ngày 29 tháng 4 năm 2011.

Nhìn chung, các chính sách của Nhà nước đã quy định rõ về thang, ngạch, bậc lương, chế độ phụ cấp mang tính đặc thù, góp phần cải thiện đời sống cho những người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn. Việc gắn quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đã giúp các đơn vị sự nghiệp chủ động hơn trong thu, chi tài chính nhằm nâng cao đời sống cho cán bộ viên chức và người lao động.

Vướng mắc lớn nhất hiện nay là hệ số các bậc lương của ngạch diễn viên thấp hơn bậc lương của một số ngạch trong bảng lương viên chức nhà nước.

Theo Quyết định số 180/2006/QĐ-TTg ngày 09/8/2006 về chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề và bồi dưỡng đối với lao động biểu diễn nghệ thuật, quy định : Bồi dưỡng luyện tập 20.000 đồng/ngày, áp dụng đối với diễn viên đóng vai chính; 15.000 đồng/ngày, áp dụng đối với diễn viên đóng vai chính thứ và 10.000 đồng/ngày, áp dụng đối với diễn viên đóng vai phụ, phục vụ… Việc quy định mức như trên là quá thấp, không phù hợp với đời sống, giá cả thực tế và sức lao động, luyện tập của nghệ sĩ. Chế độ phụ cấp ưu đãi nghề quy định chi từ nguồn thu của các đơn vị, không nằm trong ngân sách nhà nước cấp vì vậy nhiều đơn vị nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật truyền thống gặp quá nhiều khó khăn do thiếu vắng khán giả nên không có nguồn thu để chi trả phụ cấp ưu đãi cho nghệ sĩ.

Tuổi đời của diễn viên cần có một chính sách ưu tiên mang tính đặc thù để đẩy sớm độ tuổi nghỉ hưu so với quy định nhằm trẻ hóa đội ngũ nghệ sĩ biểu diễn mới đáp ứng được nhu cầu thưởng thức nghệ thuật và đòi hỏi của khán giả hiện nay.

Để giải quyết các chế độ chính sách trên liên quan đến nhiều Bộ, ngành, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã thành lập Ban Chỉ đạo để tập trung chỉ đạo giải quyết dứt điểm, có cơ chế chính sách đặc thù đối với người hoạt động trong lĩnh vực NTBD.

Nhà báo Phạm Đức Thái: Cũng liên quan đến vấn đề này, một bạn đọc ở TP Hồ Chí Minh lại có ý kiến khác: Chế độ đãi ngộ theo quy định của Nhà nước đối với nghệ sĩ thấp như vậy,  trong khi một số ca sỹ có thù lao tới vài chục triệu đồng một sô diễn. Quan điểm của Cục Nghệ thuật biểu diễn về vấn đề này như thế nào?

Phó cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn Đào Đăng Hoàn: Trước tiên, phải xác định chúng ta sống trong xã hội đang vận hành theo cơ chế thị trường. Mà cơ chế thị trường có cung và cầu, đây là vấn đề rất khó. Sự phản ánh của bạn đọc là đúng.

Có những ca sĩ nếu gọi đúng với từ “ca sĩ” thì chưa chuẩn. Các bạn ấy nhiều khi cũng chưa được đào tạo bài bản, không có bằng cấp, nhưng có năng khiếu bẩm sinh và có thể hát được. Tôi nói rất nhiều ca sĩ trước kia làm những nghề như: Người mẫu, uốn tóc,... thế rồi thông qua một số show diễn, phòng trà thì được báo chí lăng xê, thế là trở thành một ca sĩ mà nhân dân thì rất thích xem.

 Chúng tôi vẫn nói vui là trong các loại đào tạo như: Đào tạo diễn viên, đào tạo nghệ sĩ.... thì có lẽ nên đào tạo khán giả. Bởi vì họ thích xem những chương trình như vậy trong khi vé bán rất cao  mà vé bán đắt thì thu nhập cao, đương nhiên phải trả cát-xê cho ca sĩ rất cao. Trong khi các đoàn nghệ thuật của chúng ta làm các chương trình nghệ thuật rất công phu rất hay, rất ý nghĩa nhưng bán vé không được, người dân không xem. Đây là thực tế và là vấn đề chúng tôi cũng rất trăn trở và đang tìm hướng xử lý.

Nhà báo Phạm Đức Thái: Quan tâm đến lĩnh vực điện ảnh, bạn đọc tại địa chỉ anhtuanpham@gmail.com muốn hỏi Cục trưởng Cục Điện ảnh Ngô Phương Lan: Nên đánh giá như thế nào về sự phát triển của điện ảnh Việt Nam 15 năm qua? Tại sao nhiều năm gần đây điện ảnh Việt Nam không có những tác phẩm đỉnh cao?

Cục trưởng Cục Điện ảnh Ngô Phương Lan: Trước khi trả lời vào câu hỏi, tôi xin nói qua vào vấn đề tác động của Nghị quyết TW5 khóa VIII đến những người làm điện ảnh.

Suốt 15 năm qua, tư tưởng của Nghị quyết TW5 khóa VIII đã chuyển hóa thành khẩu hiệu hành động của những người làm điện ảnh “phấn đấu vì một nền điện ảnh Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Đó cũng là thành công trong việc triển khai Nghị quyết TW5 khóa VIII của ngành Điện ảnh và để lại dấu ấn trong sự phát triển nền điện ảnh nước nhà trong suốt 15 năm qua.

Dấu ấn đó thể hiện ở việc các bộ phim đặt hàng của Nhà nước vừa mang được phẩm chất tiên tiến vừa mang bản sắc dân tộc đậm nét. Có thể kể đến những tác phẩm như: Giải phóng Sài Gòn, Hà Nội 12 ngày đêm, Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông, Đừng đốt, Mùi cỏ cháy…..Bên cạnh đó, còn có những tác phẩm đi vào đời sống, tâm tư, tình cảm, nói nên khát vọng của con người Việt Nam như: Đời cát, Bến không chồng, chuyện của Pao, Trăng nơi đáy giếng, Mùa len trâu…

Như vậy, nếu nói trong thời gian qua điện ảnh của chúng ta không có tác phẩm đỉnh cao là chưa hoàn toàn đúng. Thực tế chúng ta đã có những tác phẩm giá trị nhưng có điều những tác phẩm này chưa liên tục, chưa thành vệt.

 
Cục trưởng Cục Điện ảnh Ngô Phương Lan: Dấu ấn đáng ghi nhận nhất
 trong
15 năm qua là việc triển khai xã hội hóa mạnh mẽ điện ảnh

15 năm qua, dấu ấn đáng ghi nhận nhất trong sự phát triển của điện ảnh là việc triển khai chủ trương xã hội hóa mạnh mẽ điện ảnh. Doanh thu điện ảnh tăng mạnh: vào năm 2000 là 2 triệu đôla (40 tỉ), đến năm 2012 là 47 triệu đôla (khoảng gần 1000 tỉ). Số lượng rạp chiếu tư nhân, liên doanh cũng tăng cao: 152 phòng chiếu so với 110 phòng chiếu của điện ảnh quốc doanh trong cả nước. Từ chỗ chỉ có khoảng 30 hãng phim có tư cách pháp nhân vào đầu những năm 2000, đến cuối tháng 6/2013 có khoảng 250 doanh nghiệp tư nhân được phép sản xuất phim, trong đó có khoảng 15 doanh nghiệp đầu tư thường xuyên vào sản xuất phim, tạo ra 50-60% tổng sản lượng phim sản xuất trong cả nước (trong 3 năm gần đây, số lượng phim của các hãng phim tư nhân thậm chí chiếm khoảng 70- 80% tổng số phim sản xuất). Đội chiếu phim lưu động vẫn còn tác dụng tốt ở khắp 63 tỉnh thành trong cả nước (kể cả Hà Nội và TP Hồ Chí Minh), đặc biệt là vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, biên giới, hải đảo

Tuy nhiên cũng có mặt trái của xã hội hóa, trong cam kết khi Việt Nam ra nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), không có hạn ngạch dành cho phim nhập, phim nhập không có giới hạn nên phim nhập chiếm một tỷ lệ lấn át so với phim nội. Trong đó phim nhập lại chủ yếu là những bộ phim mang tính thương mại, giải trí  nên kéo thị hiếu khán giả sang một hướng khác. Số khán giả theo dòng phim chính thống không nhiều. Bên cạnh đó việc mưu sinh của các nhà làm phim đã kéo họ sản xuất phim thị trường, hơn nữa không nhiều nhà sản xuất tâm huyết với đề tài truyền thống nên những tác phẩm đỉnh cao chưa nhiều.

Để có nhiều tác phẩm điện ảnh đỉnh cao, theo tôi cần phải có sự quan tâm nhiều hơn nữa của Nhà nước đối với việc đầu tư cho các tác phẩm đỉnh cao, cho các đề tài lớn. Bên cạnh đó cần có cơ chế chính sách thỏa đáng cho những người làm điện ảnh, để họ thực sự dốc lòng cho tác phẩm của mình.

Nhà báo Phạm Đức Thái: Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII), Bộ VHTTDL thấy cần đặc biệt chú trọng đến những vấn đề lý luận và thực tiễn như thế nào để Nghị quyết của Đảng về văn hóa  được đi vào cuộc sống? Đây là câu hỏi muốn được giải đáp của bạn đọc ở địa chỉ bichthuy84@yahoo.com.

PGS. TS Nguyễn Chí Bền: Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết, Bộ VHTTDL thấy cần đặc biệt chú trọng đến những vấn đề lý luận và thực tiễn sau:

Thứ nhất: Việc xây dựng và triển khai các chính sách kinh tế trong văn hóa và văn hóa trong kinh tế. Chính sách kinh tế trong văn hóa nhằm gắn kết văn hóa với các hoạt động kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế hỗ trợ cho phát triển văn hóa, song phải bảo đảm yêu cầu chính trị, tư tưởng của văn hóa và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Chính sách văn hóa trong kinh tế phải bảo đảm cho văn hóa thể hiện rõ trong các hoạt động kinh tế, thúc đẩy các hoạt động kinh tế tạo điều kiện nhiều hơn cho phát triển văn hóa. Việc xây dựng các mục tiêu, giải pháp kinh tế phải gắn với các mục tiêu, giải pháp của văn hóa.

Trên cơ sở đó cần triển khai các bước đi, lộ trình nhằm xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí ở Việt Nam dưới sự quản lý, điều tiết của Nhà nước.

Thứ hai: Xử lý vấn đề bảo tồn và phát triển bền vững di sản văn hóa trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; cân bằng mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại; giữ gìn, củng cố các giá trị văn hóa truyền thống bên cạnh việc làm mới, nâng tầm nền văn hóa tương xứng với sự phát triển của thời đại.

Thứ ba: Giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển văn hóa ngày càng tăng với khả năng đầu tư còn hạn chế. Ngoài các nguồn kinh phí hỗ trợ từ Nhà nước phải đẩy mạnh xã hội hóa, thu hút mọi nguồn lực đầu tư cho văn hóa.

Thứ tư:  Khắc phục sự chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền, các thành phần dân cư đang ngày càng gia tăng do tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường.

Thứ năm: Giải quyết mối quan hệ giữa giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại trong bối cảnh hội nhập quốc tế mạnh mẽ. Trong quá trình này cần tạo dựng sức đề kháng của từng cá nhân, cộng đồng và toàn dân tộc trong việc tiếp nhận văn hóa bên ngoài.

Thứ sáu: Khắc phục mâu thuẫn giữa nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần ngày càng cao của nhân dân và khả năng đáp ứng có hạn của đội ngũ sáng tác, biểu diễn và quản lý văn hóa.

Thứ bảy: Xử lý mâu thuẫn giữa chủ trương mở rộng đối ngoại văn hóa với các nguồn lực để thực hiện chủ trương này.

Nhà báo Phạm Đức Thái: Những bài học ngành Văn hóa rút ra sau 15 năm thực hiện Nghị quyết TW 5 (khoá VIII)? Đây là câu hỏi của bạn có địa chỉ xuantung_da@yahoo.com .

PGS. TS Nguyễn Chí Bền: Ngày 8/8/2013, Bộ đã tổ chức Hội nghị tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết TW 5 (khóa VIII), các bài học đã được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Tôi cho rằng, 15 năm thực hiện Nghị quyết TW 5 có thể rút ra 4 bài học.

1. Nghị quyết TW 5 là một Nghị quyết có giá trị rất to lớn, là một Nghị quyết lịch sử, hợp lòng dân. Điều tra dư luận xã hội do Viện Văn hóa nghệ thuật thực hiện ở nhiều địa phương đều cho thấy, người dân rất ủng hộ Nghị quyết này. Vì thế, tôi cho rằng, đây là một Nghị quyết có sức lan tỏa, đi vào đời sống người dân. Vì vậy, tôi nghĩ rằng, bài học cần rút ra trong quá trình triển khai Nghị quyết là chúng ta cần thực hiện đúng lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Những gì có lợi cho dân thì hết sức làm, còn những gì có hại cho dân thì hết sức tránh. Từ bài học này, chúng ta phải xem xét  quy trình phát triển văn hóa từ hệ thống văn bản pháp quy đến nguồn nhân lực, việc xây dựng các thiết chế văn hóa phải quán triệt theo tư tưởng này.

2. Triển khai quán triệt kịp thời Nghị quyết. Ngay sau khi Nghị quyết được ban hành, có rất nhiều chương trình hành động từ Chính phủ, các Bộ đến các địa phương thể chế hóa kịp thời, ban hành các cơ chế, chính sách phù hợp để triển khai hiệu quả các nội dung của Nghị quyết; tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện; có cơ chế kiểm tra, giám sát thường xuyên, liên tục cả ở tầm vĩ mô và vi mô, đồng thời tiến hành công tác biểu dương, khen thưởng kịp thời.

3. Thực hiện nghiêm túc và phát huy hơn nữa phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp của Nghị quyết. Đây là một trong những tư tưởng nổi bật của truyền thống văn hóa Việt Nam. Đây cũng là phương châm mà các nghị quyết của Đảng ta cũng đã nói rất nhiều.

4. Chú trọng đặt lên hàng đầu công tác đào tạo nguồn nhân lực cho văn hóa. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ngành văn hóa ở tất cả các khâu sáng tác, biểu diễn và quản lý văn hóa, đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng cao của ngành và đất nước. Huy động sức mạnh tổng hợp từ các chủ thể văn hóa (cộng đồng dân cư, các văn nghệ sỹ, đội ngũ quản lý văn hóa) để họ có thể đóng góp tối đa cho công cuộc xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc.

Đây là 4 bài học cơ bản của quá trình thực hiện Nghị quyết TƯ 5 (khóa VIII).

Câu trả lời của các vị khách mời được các Biên tập viên khẩn trương chuyển tới bạn đọc

Nhà báo Phạm Đức Thái: Thưa Thứ  trưởng Vương Duy Biên, tại Hội nghị tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) của ngành VHTTDL diễn ra ngày 08/8 vừa qua, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tới dự và có bài phát biểu quan trọng, trong đó yêu cầu ngành VHTTDL tập trung trao đổi một số vấn đề, xin ông cho biết rõ thêm về kết quả triển khai nội dung này? Đây là câu hỏi của bạn đọc ở địa chỉ quocdat_83@gmail.com .

Thứ  trưởng Vương Duy Biên: Tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và góp ý của các đại biểu tại Hội nghị, Bộ VHTTDL đã bổ sung, hoàn chỉnh dự thảo báo cáo tổng kết, làm rõ phương hướng và những giải pháp tập trung trong thời gian tới như sau:

1. Tiếp tục đổi mới nhận thức và quan điểm về văn hoá, nâng cao vị trí và vai trò của văn hóa trong xã hội

Để văn hoá thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước, thì vị trí và vai trò của văn hóa phải được đề cao, được coi trọng trong xã hội, làm sao để văn hóa có thể thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành hệ điều tiết sự phát triển của xã hội. Do đó, cần tích cực triển khai “Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020”; xây dựng các kế hoạch hành động phù hợp nhằm huy động nội lực, khai thác lợi thế, phát huy các thành tựu đã đạt được và khắc phục những hạn chế, yếu kém còn tồn tại.

2. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước

- Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa. Yêu cầu xây dựng và phát triển văn hóa trong giai đoạn mới đòi hỏi các cấp ủy Đảng phải nâng tầm lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo của mình, phải xuất phát từ thực tiễn và nhu cầu của nhân dân; tránh áp đặt chủ quan từ trên xuống, tạo điều kiện cho tự do sáng tạo, phát huy dân chủ, tinh thần đối thoại và phản biện xã hội của văn hóa nghệ thuật.

- Về quản lý nhà nước cần xác định rõ phạm vi quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực văn hoá. Phải đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý trên cả ba phương diện: Hoàn thiện thể chế văn hóa; hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ; nâng cao hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa.

3. Tập trung phát triển con người, trong đó giáo dục đạo đức, lối sống, nhân cách là nhiệm vụ trọng tâm

Chăm lo xây dựng con người phát triển toàn diện cả về đạo đức, trí tuệ, thể chất và thẩm mỹ, trong đó giáo dục đạo đức là nhiệm vụ trọng tâm của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa

4. Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hoá trong lĩnh vực văn hóa

Xây dựng hệ thống chính sách, biện pháp thực thi phù hợp để khai thác và phát huy được tiềm năng kinh tế của văn hóa và tiềm năng văn hóa trong kinh tế; phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam.

5. Đẩy mạnh giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa

Tăng cường giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa nhằm giới thiệu, quảng bá văn hóa Việt Nam đến bạn bè quốc tế và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại làm giàu cho văn hoá dân tộc. Giữ gìn sự đa dạng văn hóa, tích cực đối thoại liên văn hóa vì hòa bình và khoan dung trong hội nhập văn hóa quốc tế.

6. Chăm lo phát triển đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ, những người làm công tác văn hoá

Quan tâm phát triển đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ, những người hoạt động văn hoá, coi đó là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa. Ưu tiên đầu tư đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển văn hoá ở cả khu vực sáng tạo, nghiên cứu và quản lý văn hóa.

7. Nâng cao năng lực tiếp nhận văn hóa của nhân dân

Bồi dưỡng, nâng cao khả năng tiếp thu những giá trị thẩm mỹ, văn hoá của nhân dân, đồng thời tăng cường sức đề kháng trước những ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa ngoại lai.

8. Phối hợp với các ngành các cấp, với toàn bộ hệ thống chính trị trong xây dựng và phát triển văn hóa

Xây dựng và phát triển văn hóa là trách nhiệm và công việc của cả hệ thống chính trị, của các Bộ, ngành liên quan, của mỗi gia đình, cộng đồng và toàn xã hội, chứ không chỉ riêng của ngành văn hóa. Làm sao tạo ra được sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, cả hệ thống chính trị cùng chăm lo phát triển văn hóa, phát triển con người Việt Nam trong thời kỳ mới.

Thứ  trưởng Vương Duy Biên: Xây dựng và phát triển văn hóa
là trách nhiệm
và công việc của cả hệ thống chính trị

Nhà báo Phạm Đức Thái: Cũng liên quan tới các vấn đề Thứ trưởng vừa nêu, bạn đọc tại địa chỉ quanghuyle75@gmail.com hỏi: Tại Hội nghị tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) của ngành Văn hóa diễn ra ngày 08/8 vừa qua, dự thảo báo cáo tổng kết của Bộ VH, TT & DL có đề xuất Ban Chấp hành Trung ương khoá XI xây dựng một Nghị quyết mới về văn hoá, xin Thứ trưởng cho biết rõ hơn về đề xuất này?

Thứ trưởng Vương Duy Biên: Ở thời điểm ban hành Nghị quyết TW5, nước ta mới đổi mới được 12 năm, bắt đầu bước vào kinh tế thị trường, chưa xuất hiện yếu tố hội nhập (sau Đại hội X), càng chưa xuất hiện phát triển bền vững (sau Đại hội XI).

Nghị quyết TW 5 khoá VIII có tầm nhìn xa, mang tính chiến lược, yêu cầu lớn, đòi hỏi toàn diện về phát triển văn hoá, tuy nhiên tinh thần chung chủ yếu để nhận thức quan điểm, trang bị kiến thức về văn hoá, mà chưa chỉ ra việc thực hành văn hoá trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với nguồn lực hữu hạn, trong một khoảng thời gian thực hiện vô hạn, là điều kiện để các nhiệm vụ mang tính hình thức, thiếu chiều sâu về văn hoá phát triển.

Quá trình triển khai, thực hiện Nghị quyết TW 5 thiếu cơ chế đánh giá, giám sát cả ở tầm vĩ mô lẫn vi mô. Có những giải pháp đúng, nhưng thực hiện chưa đầy đủ, nên tính thực tiễn của giải pháp không hoàn thiện. Giải pháp nguồn lực phát triển văn hóa chưa được quan tâm đúng mức. Đầu tư cho văn hóa chưa có trọng điểm, có lúc, có nơi còn chưa đúng, chưa đầy đủ như Kết luận Hội nghị lần thứ 10 của BCH Trung ương Đảng khóa IX đặt ra. Nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa được xác định hạn hẹp, chưa có chiều sâu. Đặc biệt chưa quan tâm đến việc xây dựng nhân cách văn hóa con người Việt Nam; các chính sách gắn kinh tế với văn hoá, văn hoá với kinh tế còn lúng túng.

Nghị quyết TW5 rất có giá trị trong phát triển văn hoá Việt Nam ở thời điểm đó, tuy nhiên những mặt trái, hệ luỵ về văn hoá chưa bộc lộ gay gắt như bây giờ, trên thực tế, đó là dấu hiệu của phản văn hoá. Sau 15 năm, văn hoá Việt Nam bên cạnh những thành tựu đạt được, còn nảy sinh nhiều vấn đề xã hội nhức nhối liên quan đến văn hoá. Đã đến lúc phải dùng sức mạnh tổng hợp của văn hoá để phòng, chống quan liêu, tham nhũng; đã đến lúc xây dựng bộ luật của xã hội, đặc biệt chú trọng giáo dục đạo đức từ gia đình đến nhà trường và xã hội.

Sự phát triển kinh tế, khoa học, công nghệ, thông tin viễn thông và tri thức trao cho mỗi cá nhân những sức mạnh mới, làm cho mỗi cá nhân và cộng đồng thay đổi. Điều này đòi hỏi phải có cách tiếp cận mới từ nền tảng văn hoá để gắn kết cá nhân và cộng đồng, dung hợp tính đa dạng trong cách tiếp cận văn hoá của từng cá nhân trong cộng đồng, tác động toàn diện đến văn hoá, thị trường văn hoá, người tiêu dùng văn hoá mà thời điểm xây dựng Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII chưa đặt ra gay gắt như hiện tại và xu hướng sắp tới.

Quá trình toàn cầu hoá về kinh tế có nguy cơ dẫn đến xung đột với việc bảo tồn bản sắc và đa dạng văn hoá trên phạm vi toàn thế giới, đồng thời cũng xuất hiện khả năng gắn chặt quá trình kinh tế với quá trình văn hoá. Kinh tế không thể phát triển bền vững nếu không đặt rõ vấn đề văn hoá trong mỗi hoạt động kinh tế. Điều này đã bước đầu được đặt ra trong Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII, nhưng khi đó các thách thức đang ở dạng tiềm năng, chưa hối thúc như ngày nay.

Với các luận giải trên, cần có Nghị quyết mới về văn hoá với nội dung văn hoá trong Đảng, văn hoá đạo đức, góp phần tạo môi trường xã hội lành mạnh cho công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Nhà báo Phạm Đức Thái phát biểu kết thúc chương trình giao lưu trực tuyến:

Kính thưa các vị khách mời, kính thưa quý bạn đọc!

Chương trình giao lưu trực tuyến với chủ đề “Nghị quyết TW 5 (khóa VIII): Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội” đã nhận được sự hưởng ứng của đông đảo bạn đọc với hàng trăm câu hỏi gửi về tòa soạn Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua gần 3 giờ giao lưu, các vị khách mời đã trả lời thẳng thắn, trách nhiệm những câu hỏi do bạn đọc quan tâm gửi tới Báo.

Qua các câu hỏi và ý kiến gửi về Báo, có thể thấy bạn đọc quan tâm đến một số nội dung, như: Kết quả sau 15 năm triển khai, thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) trên cả nước; thực trạng tư tưởng, đạo đức và lối sống hiện nay; quan điểm, xu hướng, đội ngũ sáng tạo nghệ thuật; việc tiếp nhận, hưởng thụ văn hoá của người dân khi thị trường văn hóa thay đổi; công tác bảo tồn và phát huy, phát triển văn hoá dân tộc.

Bạn đọc cũng quan tâm đến vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa; hệ thống cơ sở vật chất, thiết chế văn hoá; việc thể chế hoá chủ trương, chính sách về văn hoá để thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa XIII); kết quả triển khai phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá; sự phát triển của Điện ảnh Việt Nam 15 năm qua; chính sách, chế độ đãi ngộ cho đội ngũ văn nghệ sĩ; những bài học được ngành Văn hóa rút ra sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII)..., cùng nhiều vấn đề khác.

Còn rất nhiều câu hỏi khác bạn đọc đã gửi đến, trong đó đề cập tới nhiều vấn đề quan trọng và nóng bỏng trên lĩnh vực văn hóa hiện nay, nhưng do điều kiện thời gian, nên các vị khách mời giao lưu chưa thể trả lời trực tiếp đến bạn đọc. Những vấn đề do độc giả nêu ra đã được chúng tôi ghi lại đầy đủ để các vị khách mời tiếp tục trả lời.

Một lần nữa xin trân trọng cảm ơn sự có mặt và tham gia buổi giao lưu của các vị khách mời: Thứ trưởng Vương Duy Biên và các đồng chí lãnh đạo các Cục, Vụ, Viện thuộc Bộ VH, TT & DL.

Xin trân trọng cảm ơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xuất Nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) đã giúp đỡ chúng tôi thực hiện Chương trình này.

Chân thành cảm ơn sự quan tâm, đặt câu hỏi của quý vị bạn đọc, cảm ơn các cơ quan báo chí đã quan tâm theo dõi và đưa tin kịp thời về nội dung buổi giao lưu ngày hôm nay.

Xin trân trọng cảm ơn!./.

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực