Kinh tế Việt Nam qua góc nhìn của Ngân hàng Phát triển Châu Á

Thứ tư, 25/09/2019 15:47
(ĐCSVN) - Báo cáo Cập nhật Triển vọng Phát triển Châu Á ADO 2019, của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) dự báo nền kinh tế Việt Nam sẽ giảm tốc độ tăng trưởng nhẹ trong năm 2019 và năm 2020, sau khi đạt mức tăng trưởng rất cao vào năm 2018.

Theo đó, thặng dư tài khoản vãng lai được dự báo sẽ thu hẹp trong cả hai năm ở mức cao hơn so với dự báo hồi tháng 4. Mặc dù hoạt động xuất khẩu tăng trưởng chậm lại, nền kinh tế Việt Nam nhìn chung sẽ vẫn duy trì tăng trưởng lành mạnh nhờ nhu cầu nội địa cao và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được duy trì ổn định. 

ADB dự báo kinh tế Việt Nam cho năm 2020 cũng được điều chỉnh xuống

Đánh giá cập nhật Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đã giảm nhẹ từ 7,0% trong 6 tháng đầu năm 2018 xuống 6,8% trong cùng kỳ năm 2019. Về phía cầu, do nhu cầu từ bên ngoài giảm, tốc độ tăng trưởng lượng xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ cũng giảm hơn một nửa, từ 15,7% trong 6 tháng đầu năm 2018 xuống 7,1% cùng kỳ năm 2019. 

Tuy vậy, tác động bất lợi của việc giảm tốc độ tăng xuất khẩu lên tăng trưởng GDP đã bị hạn chế nhờ nhu cầu nội địa tiếp tục giữ vững. Trong 6 tháng đầu năm 2019, tiêu dùng cá nhân tăng trưởng tốt ở mức 7,2%, tương đương tốc độ năm trước, chủ yếu do thu nhập gia tăng, việc làm ổn định và lạm phát ở mức thấp. Đồng thời, đầu tư trong nước tăng trưởng 7,1%, tương đương mức tăng trưởng của năm trước nhờ môi trường kinh doanh cải thiện, niềm tin của nhà đầu tư tiếp tục được duy trì và dòng vốn đầu tư nước ngoài cao. 

Trong 6 tháng đầu năm 2019, Việt Nam có 67.000 doanh nghiệp mới thành lập, đây là mức cao nhất của sáu tháng đầu năm trong vòng 5 năm qua. Giải ngân vốn FDI ước tính tăng 8,1% trong nửa đầu năm 2019, đạt 9,1 tỉ USD, tương đương 8,4% GDP. Đầu tư gián tiếp nước ngoài cũng phản ánh niềm tin của doanh nghiệp được cải thiện, tăng gần gấp đôi trong sáu tháng đầu năm nay so với cùng kỳ năm 2018, đạt 8,1 tỉ USD. 

Tốc độ tăng trưởng của tất cả các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ đều giảm nhẹ, song ở các mức độ khác nhau. Hạn hán kéo dài và dịch tả lợn châu Phi bùng phát làm cho tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp Việt Nam giảm từ 3,8% trong nửa đầu năm 2018 xuống còn 2,4% trong cùng kỳ năm nay. Trong ngành nông nghiệp, tăng trưởng sản xuất nông nghiệp giảm mạnh từ 3,1% xuống còn 1,3%, và tăng trưởng sản lượng lâm nghiệp cũng giảm từ 5,5% xuống 4,2%, trong khi thuỷ sản vẫn duy trì được mức tăng trưởng cao 6,4%. 

Công nghiệp và xây dựng trong 6 tháng đầu năm có mức tăng trưởng tốt, chỉ giảm nhẹ từ 9,1% trong nửa đầu năm 2018 xuống 8,9%. Trong ngành công nghiệp, tốc độ tăng trưởng công nghiệp chế biến chế tạo giảm nhẹ xuống mức 11,2%, nhờ ngành khai khoáng đã đảo chiều từ giảm 1,3% trong nửa đầu năm 2018 lên tăng 1,8% trong cùng kỳ 2019. 

Xây dựng duy trì mức tăng trưởng 7,9%. Tương tự, khu vực dịch vụ cũng duy trì mức tăng trưởng 6,7% nhờ nhu cầu trong nước cao bù đắp lại cho sự giảm sút về tốc độ tăng trưởng du khách quốc tế, từ mức tăng 27,2% trong 6 tháng đầu năm 2018 xuống chỉ còn 7,5%. 

Dịch vụ tài chính ngân hàng đạt mức tăng trưởng ấn tượng 8,0% trong nửa đầu năm 2019. Lạm phát bình quân giảm từ 3,3% trong 6 tháng đầu năm 2018 xuống 2,6% trong nửa đầu năm nay, đây là mức lạm phát bình quân sáu tháng thấp nhất trong 3 năm trở lại đây. 

Giá xăng dầu giảm, tăng trưởng tín dụng và cung tiền chậm lại, và tỉ giá tương đối ổn định đã bù lại phần nào áp lực lạm phát từ việc tăng giá điện và giá lương thực. Về cán cân đối ngoại, tăng trưởng xuất khẩu hàng hoá giảm từ 17,1% trong 6 tháng đầu năm 2018 xuống 7,2% trong cùng kỳ năm nay. 

Tăng trưởng nhập khẩu hàng hoá trong cùng kỳ cũng giảm tốc, nhưng chỉ giảm từ 10,7% xuống khoảng 8,9%, làm cho thặng dư cán cân vãng lai thu hẹp một nửa, từ mức tương đương 3,5% GDP một năm trước đây xuống khoảng 1,7%. Trong khi đó, cán cân vốn đạt thặng dư ước tính 7,9% GDP, nhờ dòng vốn FDI và vốn đầu tư gián tiếp ròng đều tăng. Thặng dư cán cân thanh toán tổng thể tương đương 8,5% GDP, cao hơn một chút so với mức 8,4% của năm trước. 

Dự trữ ngoại hối tăng, đến tháng 6/2019, ước tính tương đương ba tháng nhập khẩu. Chính sách củng cố tài khoá tiếp tục được thực hiện trong nửa đầu năm 2019. Thu ngân sách của chính phủ tăng từ mức tương đương 28,7% GDP trong sáu tháng đầu năm trước lên 30,0% trong cùng kỳ năm 2019, trong khi tỉ lệ chi ngân sách trên GDP giảm từ 28,6% xuống 26,8%. 

Nhờ đó, ngân sách đạt mức thặng dư tương đương 3,2% GDP trong sáu tháng đầu năm, tăng mạnh từ mức thặng dư khiêm tốn 0,1% trong cùng kỳ năm 2018. Trong khi đó, tiến độ cải cách doanh nghiệp nhà nước vẫn chậm. Mặc dù chính phủ đặt ra mục tiêu cổ phần hoá 127 doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn 2017-2020, song tính đến tháng 5 năm nay mới chỉ có 34 doanh nghiệp được cổ phần hoá. 

Chính sách tiền tệ và tín dụng tiếp tục xu hướng thận trọng trong nửa đầu năm nay, tốc độ tăng trưởng cung tiền (M2) giảm từ 16,6% một năm trước đây xuống khoảng 10,6%, cùng với tốc độ tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng giảm từ 15,7% xuống khoảng 14,2%. 

6 tháng đầu năm 2019 cũng cho thấy những tiến triển trong cải cách hệ thống ngân hàng. Tỉ lệ nợ xấu (NPL) được chính thức công bố trên bảng cân đối kế toán của hệ thống ngân hàng giảm từ 2,1% hồi tháng 6/2018 xuống 1,9% vào tháng 6/2019. Đồng thời, tỉ lệ nợ xấu tổng thể (bao gồm cả nợ xấu do các ngân hàng nắm giữ, nợ xấu hiện nay nằm tại Công ty Quản lý Tài sản Việt Nam (VAMC) và nợ của các ngân hàng được coi là có nguy cơ cao trở thành nợ xấu) giảm từ 6,9% vào giữa năm 2018 xuống 5,9%. Ngoài ra, mục tiêu của chính phủ đề ra cho tất cả các ngân hàng đáp ứng yêu cầu đủ vốn theo Basel II vào năm 2020 cũng đạt được một số tiến bộ nhất định. 

Đến tháng 7 năm 2019, có 9/35 ngân hàng thương mại trong nước đã thực hiện được yêu cầu trên. Do xung đột thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ tiếp tục kéo dài dẫn đến sụt giảm trong thương mại toàn cầu, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu được dự báo sẽ giảm trong giai đoạn trước mắt. Tuy nhiên, nhu cầu trong nước gia tăng sẽ bù đắp cho sụt giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu. Qua đó, tăng trưởng GDP dự kiến vẫn nhất quán với dự báo tăng 6,8% trong năm nay và 6,7% trong năm 2020 như trong báo cáo ADO 2019. 

Về phía cầu, tiêu dùng nội địa tiếp tục cho thấy triển vọng tích cực. Tiêu dùng cá nhân sẽ tiếp tục tăng nhờ lạm phát thấp, nhiều công ăn việc làm, kinh tế tăng trưởng cao mặc dù tốc độ tăng trưởng giảm nhẹ. Những nỗ lực không ngừng của chính phủ nhằm cải thiện môi trường kinh doanh cùng với xếp hạng tín nhiệm quốc gia gần đây được cải thiện sẽ kích thích đầu tư tư nhân. Nếu xung đột thương mại Mỹ-Trung tiếp tục leo thang, nhiều doanh nghiệp sản xuất có thể cân nhắc Việt Nam như một cơ sở sản xuất thay thế, tạo thêm động lực mới cho luồng vốn đầu tư FDI. 

Hiệp định thương mại tự do với Liên minh châu Âu mới được ký kết cũng như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương hứa hẹn sẽ tiếp tục mở cửa tiếp cận thị trường cho thương mại và đầu tư. Do đó, các dòng vốn FDI sẽ tiếp tục mạnh mẽ trong thời gian tới, với minh chứng là 13,1 tỉ USD đã được cam kết trong 8 tháng đầu năm 2019. 

Luật đầu tư công mới được sửa đổi sẽ cải thiện đầu tư công thông qua việc đẩy nhanh quy trình và thủ tục và giúp đẩy nhanh tiến độ giải ngân. Xét theo ngành kinh tế, triển vọng các ngành công nghiệp và dịch vụ tiếp tục tích cực, song nông nghiệp sẽ bị chậm lại. Chỉ số quản trị mua hàng trong ngành công nghiệp chế biến chế tạo trong 8 tháng đầu năm vẫn trên 50, đây là dấu hiệu tích cực. 

Sản lượng khai khoáng sẽ tiếp tục phục hồi, và ngành xây dựng dự báo sẽ duy trì tăng trưởng mặc dù tín dụng cho lĩnh vực bất động sản bị thắt chặt hơn. Khu vực dịch vụ cũng sẽ tiếp tục tăng trưởng cùng với sự mở rộng trong bán lẻ và bán buôn để đáp ứng nhu cầu trong nước, và lượng du khách gia tăng sẽ đạt được mục tiêu 15 triệu lượt khách vào cuối năm nay. Dự báo lạm phát bình quân được điều chỉnh xuống 3,0% trong năm 2019 và 3,5% trong năm 2020. 

Lạm phát bình quân tính theo năm được kiềm chế ở mức 2,6% trong 8 tháng đầu năm 2019, mức thấp nhất trong ba năm gần đây. Áp lực lạm phát trong ngắn hạn có thể đến từ việc điều chỉnh tăng một số giá cả do nhà nước quản lý, nhu cầu trong nước mạnh, tiền lương tối thiểu tăng, và giá lương thực có thể tăng do bệnh dịch tả lợn châu Phi và hạn hán nghiêm trọng. Tuy nhiên, áp lực này có thể bị kiềm chế bởi giảm tốc độ tăng cung tiền và tăng trưởng tín dụng. 

Thặng dư tài khoản vãng lai được dự báo sẽ thu hẹp nhiều hơn so với dự báo trong báo cáo ADO 2019 cho cả năm nay và năm sau. Thu nhập từ xuất khẩu sẽ tăng chậm hơn so với dự báo trước đây, thêm nữa nhập khẩu cũng giảm tốc độ chậm hơn so với dự kiến do tiêu dùng nội địa và đầu tư vẫn ở mức cao, đặc biệt với khả năng một số doanh nghiệp sản xuất có thể di chuyển từ Trung Quốc sang Việt Nam. 

Kiều hối có thể bị ảnh hưởng bởi suy giảm kinh tế toàn cầu, tiếp tục làm cho thặng dư tài khoản vãng lai giảm sút. Dự báo thặng dư tài khoản vãng lai được điều chỉnh giảm xuống tương đương 2% GDP trong năm nay, và 1,8% GDP trong năm 2020. Chính phủ tiếp tục theo đuổi chính sách củng cố tài khoá. 

Mặc dù cần phải đẩy nhanh tiến độ giải ngân chi đầu tư song chính phủ vẫn tiếp tục tăng cường nỗ lực thu ngân sách và kiểm soát chặt hơn đối với các khoản chi tiêu không cần thiết để kiềm chế bội chi và cải thiện tính bền vững của nợ công. Mặc dù lạm phát chỉ ở mức thấp, chính phủ sẽ tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ thận trọng trong năm 2019 và giữ tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức mục tiêu 14%. 

Các ngân hàng thương mại tiếp tục chịu áp lực đáp ứng chuẩn mực Basel II vào năm 2020. Tín dụng cũng sẽ tiếp tục bị hạn chế đối với các lĩnh vực đầu tư rủi ro cao như bất động sản. Rủi ro đối với những dự báo trên là đáng kể. Rủi ro lớn nhất từ bên ngoài sẽ là xung đột thương mại Mỹ - Trung tiếp tục gia tăng và thương mại toàn cầu tiếp tục sụt giảm. Nếu như xung đột thương mại – chủ yếu thông qua việc tăng thuế quan – biến thành cạnh tranh phá giá đồng tiền thì nó sẽ mang lại nhiều hệ lụy lớn hơn đối với thị trường tài chính quốc tế và tạo ra các rủi ro mới đối với nền kinh tế Việt Nam./.

Mạnh Hùng

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực