Một số giải pháp để phát triển kinh tế tư nhân

Thứ bảy, 10/02/2018 19:30
(ĐCSVN) - Ở nước ta, tuy không chính thức nêu ra các tiêu chí cụ thể phân định cấu thành chế độ tư hữu, mà sự phân chia được mặc định dựa vào quy mô đối tượng sở hữu của chủ sở hữu và cách thực hiện quyền sở hữu gắn loại hình tổ chức kinh doanh.

 

Ảnh minh hoạ (Nguồn: báo Quảng Ninh)


Theo đó, chế độ sở hữu tư nhân có thể có các hình thức chủ yếu dưới đây:

(1) Hình thức sở hữu tư nhân (SHTN) gắn với loại hình tổ chức kinh doanh "hộ cá thể"

Loại này thường có quy mô nhỏ, chủ sở hữu trực tiếp thực hiện quyền sở hữu (QSH); chủ sở hữu cùng thành viên trong gia đình tham gia trực tiếp vào các khâu của quá trình sản xuất, kinh doanh.

Hình thức này tồn tại phổ biến trong lĩnh vực nông nghiệp (hiện nay ở nước ta có khoảng trên 11 triệu hộ gia đình nông dân), tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ nhỏ.

Ưu điểm cơ bản của loại hình này là: tính cơ động trong thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, huy động được các thành viên gia đình tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng loại hình này cũng đặc trưng cho sản xuất hàng hóa nhỏ, phân tán, tính tự phát cao, khả năng cạnh tranh kém…

(2) Hình thức SHTN gắn với loại hình tổ chức kinh doanh "hộ tiểu chủ". Loại này có quy mô vừa và nhỏ, chủ sở hữu thực hiện quyền sở hữu một cách trực tiếp. Hình thức này ngoài sử dụng lao động trong gia đình, chủ sở hữu có thể thuê mướn lao động với số lượng nhất định. Loại hình này có khả năng đảm bảo các nguồn lực sản xuất lớn hơn so với loại hình tổ chức kinh doanh "hộ cá thể", có khả năng tiếp cận thị trường, có ưu điểm trong khai thác thị trường "ngách" hoặc trở thành các "vệ tinh" cho những doanh nghiệp lớn và có ưu thế tạo việc làm cho người lao động. Những ưu thế này chỉ có được khi chủ sở hữu có năng lực quản lý, điều hành và thiết lập được quan hệ với các chủ thể khác trên thị trường. Hiện nay ở nước ta hộ tiểu chủ trong các lĩnh vực thủ, công nghiệp, thương mại và dịch vụ có khoảng trên 2 triệu hộ.

(3) Hình thức SHTN gắn với loại hình tổ chức kinh doanh "doanh nghiệp tư nhân". Hình thức này tồn tại với những quy mô nhỏ, vừa và lớn. Quy mô kinh doanh hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực của chủ sở hữu: quy mô sở hữu của họ và khả năng huy động các nguồn lực bên ngoài. Chủ sở hữu trực tiếp thực hiện quyền sở hữu và điều hành quá trình sản xuất kinh doanh hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện dưới hình thức hợp đồng thuê quản lý điều hành. Quá trình sản xuất kinh doanh do người lao động làm thuê thực hiện. Ở nước ta, loại hình này hiện nay có trên 500.000 doanh nghiệp và mục tiêu đến năm 2025 có trên 1,5 triệu doanh nghiệp tư nhân.

Một thời gian khá dài ở Việt Nam, hình thức sở hữu này được "ngầm hiểu" là hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa (hình thức sở hữu tư bản tư nhân). Hiện nay, trong xã hội, một số nơi nào đó cán bộ và nhân dân vẫn còn mặc cảm, e ngại trước sự phát triển của loại hình này.

(4) Ngoài ra, còn có hình thức sở hữu tư nhân với những quy mô khác nhau, được chủ sở hữu ủy quyền cho người khác thực hiện quyền sử dụng các đối tượng sở hữu của họ, dưới các hình thức khác nhau nhằm tìm kiếm lợi nhuận (tham gia công ty trách nhiệm hữu hạn, mua cổ phiếu của công ty cổ phần, gửi tiền vào ngân hàng…). Chủ sở hữu được hưởng lợi và chịu trách nhiệm trong khuôn khổ quy mô tài sản và vốn mà họ sở hữu trong hình thức tổ chức kinh doanh tương ứng.

Tóm lại, thành phần KTTN ra đời và phát triển trên cơ sở chế độ sở hữu tư nhân hay chế độ tư hữu (sở hữu cá thể, tiểu chủ và sở hữu tư bản tư nhân). Các hình thức tổ chức kinh doanh thuộc thành phần KTTN bao gồm: các hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ với quy mô vừa và nhỏ; các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và doanh nghiệp tư nhân với các quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ, vừa và lớn.

Từ không thừa nhận đến thừa nhận và đề cao vai trò của kinh tế tư nhân

Trước đây, theo quan niệm cứng nhắc về chủ nghĩa xã hội và nhận thức không đầy đủ về tính chất lâu dài, phức tạp của thời kỳ quá độ (TKQĐ) lên CNXH, các nước XHCN (trong đó có Việt Nam) đã áp dụng những biện pháp hành chính, cực đoan nhằm xóa bỏ nhanh chóng sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân, nhưng kinh tế tư nhân vẫn tồn tại, phát triển dưới dạng "kinh tế ngầm". Chỉ đến khi thực hiện công cuộc cải cách kinh tế với những hình thức và lộ trình khác nhau để chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu sang kinh tế thị trường thì sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân dần dần được thừa nhận và khuyến khích phát triển và được đề cao Đại hội lần thứ XII (2016) đã khẳng định "Nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế…" .

Việc phát triển KTTN thể hiện sự tôn trọng quyền tự chủ của các chủ sở hữu trong việc thực hiện hoạt động kinh doanh trong khuôn khổ luật pháp nhà nước. Quyền tự do kinh doanh của các chủ sở hữu tư nhân được tôn trọng cùng với việc đề cao tính tự chịu trách nhiệm với kết quả sản xuất, kinh doanh. Do quyền lợi và trách nhiệm gắn liền với chủ sở hữu, nên người chủ luôn quan tâm đến hiệu quả sử dụng tài sản của họ… Tất cả những điều đó đã tạo nên động lực thúc đẩy các hoạt động đầu tư vào kinh doanh của các chủ thể KTTN. Việc thúc đẩy phát triển KTTN, khuyến khích các chủ thể KTTN làm giàu hợp pháp và góp phần làm giàu cho xã hội là cách thức quan trọng giải phóng sức sản xuất, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đó là:

- Góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động;

- Huy động các nguồn vốn trong dân, trong xã hội vào hoạt động sản xuất, kinh doanh;

- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đóng góp ngày càng nhiều vào ngân sách nhà nước;

- Tạo môi trường kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam;

- Sự phát triển KTTN tạo sức ép thúc đẩy đổi mới doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác và đổi mới quản lý nhà nước;

- Thông qua sự phát triển KTTN mà quyền làm chủ của nhân dân, trước hết là quyền làm chủ về kinh tế được phát huy. Đồng thời, sự phát triển KTTN đã tạo ra đội ngũ doanh nhân năng động, có khả năng thích ứng nhanh với điều kiện cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.

Qua 30 năm Đổi mới, diện mạo của khu vực KTTN đã có sự thay đổi rõ rệt, số lượng doanh nghiệp tư nhân không ngừng phát triển với quy mô rộng lớn hơn, KTTN đã tham gia ở tất cả các lĩnh vực, từ sản xuất đến thương mại, dịch vụ hay thậm chí cả những dịch vụ công… Tất cả đang đóng góp ngày càng nhiều cho kinh tế và xã hội.

Số liệu thống kê về KTTN cho thấy: (1) Hiện cả nước có khoảng 500.000 doanh nghiệp, chiếm 90% số doanh nghiệp cả nước và khoảng 2 triệu hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ. Trong giai đoạn 2006-2015, so với kinh tế nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), khu vực kinh tế tư nhân (tư nhân + cá thể) đóng góp hơn 40% GDP của cả nước; 30% giá trị tổng sản lượng công nghiệp; Khoảng 80% tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ; 64% tổng lượng hàng hóa và 100% giá trị sản lượng hàng hóa vận chuyển; (2) Giai đoạn 2006-2010, KTTN đóng góp khoảng 35% tổng vốn đầu tư phát triển; giai đoạn 2011-2015 khoảng 36%; (3) KTTN là lực lượng chủ yếu tạo việc làm mới, góp phần tích cực vào việc giải quyết các vấn đề xã hội. Khu vực KTTN thu hút khoảng 51% lực lượng lao động cả nước và tạo khoảng 1,2 triệu việc làm cho người lao động mỗi năm. Hiện nay số lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong khu vực KTTN chiếm khoảng 85%/tổng lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế. Ưu thế nổi bật của KTTN trong giải quyết việc làm là có thể thu hút được lực lượng lao động đa dạng: từ lao động có trình độ cao đến lao động giản đơn; mức đầu tư cho một chỗ, làm việc thấp hơn so với các thành phần kinh tế khác.

Từ sự phân tích trên, cho thấy vai trò quan trọng của KTTN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Với lẽ đó, Đại hội XII của Đảng khẳng định: kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Quan điểm đó của Đảng ta cho thấy, đánh giá về vị trí, vai trò của KTTN trong Đại hội XII có bước phát triển mới (Đại hội X, XI xác định: " KTTN có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế", (tức là KTTN không những được xác định là một trong những động lực của nền kinh tế, mà còn là động lực quan trọng của nền kinh tế nước ta hiện nay.

Tuy vậy, cần đánh giá khách quan, công bằng sự phát triển của KTTN, chống tư tưởng coi nhẹ vai trò của KTTN đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước và chống khuynh hướng "đề cao quá mức dẫn đến tuyệt đối hóa vai trò của kinh tế tư nhân”. Bởi, KTTN đang có sức vươn lên mạnh mẽ, đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng đất nước, song, quy mô và nội lực của doanh nghiệp Việt Nam đa phần còn nhỏ bé và yếu kém; năng lực cạnh tranh thấp; chất lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ chưa cao; nguồn lực tài chính và trình độ trang thiết bị kỹ thuật còn nhỏ bé, thấp kém; năng lực quản trị còn nhiều hạn chế, đại bộ phận các doanh nghiệp thuộc KTTN thực hiện kinh doanh theo "kiểu ngắn hạn", chưa hoạch định được chiến lược kinh doanh dài hạn… Ngoài ra, vẫn còn tồn tại "tính tự phát", "vô Chính phủ' trong sản xuất kinh doanh… Bên cạnh đó, khu vực KTTN hiện vẫn còn nhiều rào cản đến từ môi trường kinh doanh… Đây là những trở ngại cho con đường trở thành động lực quan trọng góp phần phát triển KTTT định hướng XHCN.

Giải pháp phát triển KTTN để thực sự là ''động lực quan trọng'' trong nền KTTT định hướng XHCN

Việc phát huy vai trò của KTTN trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, một mặt, phụ thuộc vào năng lực và động cơ kinh doanh của các chủ sở hữu tư nhân; mặt khác, quan trọng hơn, phụ thuộc vào năng lực, hiệu quả, hiệu lực của quản lý nhà nước về kinh tế.

Về phía Nhà nước

Trong giai đoạn mới, Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: Tiếp tục cải thiện môi trường, điều kiện kinh doanh thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển trong điều kiện hội nhập quốc tế, hoàn thiện cơ chế chính sách khuyến khích tạo thuận lợi phát triển mạnh KTTN ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực kinh tế; trong đó, chú trọng hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp; khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước. Điều này là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn hiện nay ở nước ta.

Thực hiện chủ trương đó, cần các biện pháp như sau:

Để đạt tới mục tiêu trong giai đoạn này là huy động được mọi nguồn lực của toàn xã hội để phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội ổn định, nhanh, bền vững, Nhà nước không phải chỉ tiếp tục tạo môi trường kinh tế, pháp lý ổn định, thông thoáng, minh bạch, lành mạnh, mà còn phải tạo những điều kiện về chính trị - xã hội, trong đó có sự đồng thuận về mặt xã hội để các nhà đầu tư tư nhân (trong nước và nước ngoài) yên tâm và hăng hái mang hết khả năng tài chính và trí tuệ, năng lực và trách nhiệm… đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đồng thời, Nhà nước cần quan tâm tới bảo vệ lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động làm thuê, chú trọng đảm bảo an sinh xã hội.

Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh. Trong đó, đáng quan tâm là:

(i) Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng, cạnh tranh theo pháp luật.

(ii) Bảo đảm quyền tự do kinh doanh các lĩnh vực mà Nhà nước không cấm. Nội dung quan trọng hàng đầu của quyền tự do kinh doanh là quyền được đảm bảo quyền sở hữu tài sản (vật, tiền, các giấy tờ có giá và quyền tài sản - quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ).

(iii) Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh, tăng cường tính minh bạch đối với độc quyền nhà nước và độc quyền kinh doanh, kiểm soát độc quyền kinh doanh.

(iv) Hoàn thiện thể chế bảo vệ nhà đầu tư, quyền sở hữu và quyền tài sản.

(v) Việc tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh các doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế và hình thức sở hữu là trách nhiệm cao cả của Nhà nước, mọi sự thiên vị và phân biệt đối xử ở mọi mức độ và dưới mọi hình thức đều trái với nguyên tắc thị trường. Tuy nhiên, không phải nhân các ưu đãi và khuyến khích mà Nhà nước cần và có thể sử dụng trong quá trình quản lý, điều hành kinh tế vĩ mô. Nếu có những ưu đãi, thì chúng chỉ mang tính "thời đoạn", ngắn "hạn" để "làm mồi" ban đầu cho mỗi chủ thể đầu vào lĩnh vực mà nhà nước và xã hội mong muốn, song, những ưu đãi ấy cũng phải tuân thủ nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử.

Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hướng tới yêu cầu mọi công dân, mọi tổ chức chính trị, xã hội, kinh tế đều phải thực hiện "sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật" thì:

(1) Một trong những yêu cầu của một nhà nước mạnh là tạo được điều kiện để thúc đẩy phát triển hệ thống doanh nghiệp và đưa được chúng vào quỹ đạo chung, chứ không phải là Nhà nước tư duy và hành động theo kiểu "quản được đến đâu thì mở đến đó", "không quản được thì cấm". Để tạo thuận lợi cho chính Nhà nước trong việc "điều khiển cuộc chơi", Nhà nước cần mở rộng sự tham gia của ''các người chơi" - chủ thể kinh tế - vào quá trình hình thành các "luật chơi" và "luật chơi" đó phải được xây dựng xuất phát từ yêu cầu bình đẳng, thuận lợi cho những "người chơi" chứ không phải xuất phát từ những yêu cầu tạo thuận lợi cho "người điều khiển cuộc chơi".

(2) Hệ thống luật pháp kinh tế phải được xây dựng đồng bộ, bảo đảm tính hệ thống của các đạo luật và văn bản dưới luật phù hợp với yêu cầu phát triển KTTT định hướng XHCN. Hệ thống luật pháp trong nước phải được điều chỉnh cho phù hợp với thông lệ quốc tế và các ràng buộc của các định chế kinh tế - tài chính quốc tế mà Việt Nam đã cam kết thực hiện. Và điều quan trọng là luật pháp phải là công cụ chủ yếu của nhà nước trong quản lý kinh tế vĩ mô, các loại công cụ quản lý khác của quản lý nhà nước về kinh tế cũng phải được luật hóa. Hành xử theo pháp luật không phải chỉ là nghĩa vụ của các đối tượng chịu sự điều chỉnh của pháp luật, mà cũng là trách nhiệm của chính các cơ quan quản lý nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.

Về phía các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân

Có nhiều việc phải làm, song theo tôi, cần tập trung vào các vấn đề sau đây:

Một là, các doanh nghiệp thuộc thành phần KTTN bên cạnh việc phát huy ưu thế, ưu điểm và những đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cần có những biện pháp hữu hiệu khắc phục những hạn chế yếu kém trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, như:

- Nguồn lực tài chính, trình độ trang bị kỹ thuật, công nghệ và năng lực cạnh tranh còn thấp.

- Đại bộ phận các doanh nghiệp thuộc thành phần KTTN thực hiện kiểu kinh doanh tình huống ngắn hạn chưa hoạch định được chiến lược kinh doanh dài hạn.

- Bên cạnh đại bộ phận doanh nghiệp thuộc thành phần KTTN hoạt động lành mạnh, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của Nhà nước và có những đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, vẫn còn một bộ phận doanh nghiệp tìm cách thu lợi bất chính bằng mọi thủ đoạn khác nhau, như: trốn thuế, lậu thuế, làm hàng giả, hàng nhái, thành lập doanh nghiệp nhưng không tổ chức hoạt động mà mua bán hóa đơn giá trị gia tăng để kiếm lời, mua chuộc và hối lộ cán bộ công chức nhà nước thoái hóa biến chất…

Hai là, đẩy mạnh xây dựng văn hóa kinh doanh và nâng cao trách nhiệm xã hội của mỗi doanh nghiệp. Đây chính là việc bản thân mỗi doanh nghiệp tự tạo cho mình sự ủng hộ của cộng đồng xã hội với cộng đồng kinh doanh của mình.

Ba là, phát triển các loại hình doanh nghiệp đa sở hữu là xu hướng phát triển của kinh tế tư nhân và của liên kết các thành phần kinh tế, các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường.

Bởi, khi quy mô sản xuất ngày càng mở rộng, cạnh tranh ngày càng gay gắt… kinh doanh trên cơ sở sở hữu tư nhân sẽ bộc lộ hàng loạt những yếu thế trong việc nghiên cứu và ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ, nắm bắt và hiện thực hóa các cơ hội kinh doanh, cải thiện khả năng cạnh tranh trên thị trường… Do đó, song hành với việc phát triển các hình thức tổ chức kinh tế đơn sở hữu tư nhân, sẽ dần hình thành nhiều tổ chức kinh doanh đa sở hữu trên cơ sở liên kết, liên doanh của các chủ sở hữu tư nhân, như, tham gia vào các công ty cổ phần, tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu, tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước, liên kết giữa doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp FDI (doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài). Điều cốt yếu để cho các liên kết, liên doanh ấy tồn tại và phát triển là phải giải quyết hài hòa lợi ích các bên tham gia, vì lợi ích là chất "kết dính" các đối tác tham gia.

 

GS.TS. Chu Văn Cấp

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực