Cần có cái nhìn đúng về Nhà máy nhiệt điện than

Thứ năm, 13/12/2018 21:23
(ĐCSVN) – Theo Thứ trưởng Bộ Công Thương Cao Quốc Hưng, quan điểm chỉ đạo của Chính phủ là phải đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, trong đó có việc đảm bảo cung cấp đủ điện phục vụ phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ quan trọng.

Để đảm bảo nhu cầu cung ứng điện cho sản xuất, sinh hoạt nhiều năm tới, nhiệt điện than vẫn được đánh giá quan trọng trong cơ cấu nguồn điện. Vậy cần hiểu sao cho đúng về nhiệt điện than? Liệu đây có phải nguồn điện gây ô nhiễm môi trường? Đây là nội dung chính của Hội thảo “Cần có cái nhìn đúng về Nhà máy nhiệt điện than” do Báo Lao Động và Bộ Công thương tổ chức ngày 13/12, tại Hà Nội.

Theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh, đến năm 2030, cả nước sẽ có hơn 70 nhà máy nhiệt điện than. Dự kiến giai đoạn 2018-2022, tổng công suất các nguồn điện đưa vào vận hành là 34.864 MW; trong đó nhiệt điện than là 26.000 MW. Tuy nhiên, thực tế tới nay mới chỉ có 7 dự án nhiệt điện than đã được khởi công và đang triển khai xây dựng với công suất 7.860 MW, còn thiếu 18.000 MW theo yêu cầu.

Thứ trưởng Bộ Công Thương Cao Quốc Hưng (Ảnh: K.D)

Thứ trưởng Bộ Công Thương Cao Quốc Hưng cho biết, quan điểm chỉ đạo của Chính phủ là phải đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia; trong đó có việc đảm bảo cung cấp đủ điện phục vụ phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ quan trọng.

Trong giai đoạn 2016-2030, dự báo tốc độ tăng trưởng GDP với kịch bản cơ sở bình quân 7,0%, tương ứng với tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm toàn quốc ở phương án cơ sở giai đoạn 2016-2020, 2021-2025 và 2026 -2030 là 10,6%, 8,5% và 7,5%.

Theo Thứ trưởng Cao Quốc Hưng, để đáp ứng nhu cầu điện cho phát triển cần phát triển nguồn điện hài hòa nhất là trong bối cảnh các thuỷ điện vừa và lớn cơ bản đã khai thác hết, các nguồn điện khác còn hạn chế. Đơn cử như nguồn khí, hiện tổng công suất nhiệt điện khí (dùng khí đốt trong nước) đưa vào cân đối dài hạn chỉ dừng ở mức trên 12.000 MW với sản lượng điện khoảng 63 tỷ kWh/năm.

Do đó trong giai đoạn sắp tới, nhiệt điện than sẽ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, Thứ trưởng Cao Quốc Hưng cho hay.

Báo cáo từ Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo, Bộ Công Thương cũng chỉ ra, nguồn thuỷ điện lớn và vừa cơ bản đã khai thác hết. Điện năng sản xuất từ thuỷ điện năm 2030 chỉ chiếm khoảng 12,4%. Điện hạt nhân đã được Quốc hội dừng thực hiện. Đối với nguồn điện nhập khẩu hiện nay Việt Nam đang phải nhập khẩu khoảng 1.000 MW từ Trung Quốc và Lào. Con số dự kiến sẽ tăng từ 3 đến 5 lần trong thời gian tới.

Đối với nhiệt điện khí trong nước, trữ lượng các mỏ bắt đầu suy giảm, chi phí sản xuất điện cao do giá khí cao, sơ bộ giá điện khoảng 2.700-2.800 đồng/kWh. Nguồn nhiệt điện khí sử dụng LNG nhập khẩu phụ thuộc vào giá thị trường thế giới. Nguồn năng lượng tái tạo thì giá điện cao, vận hành không ổn định, phụ thuộc vào thời tiết và cần có nguồn dự phòng. Trong khi đó, nguồn nhiệt điện than có giá hợp lý, có vai trò quan trọng trong việc cung ứng điện, lượng điện năng sản xuất năm 2030 của nhiệt điện than chiếm trên 53% tổng sản lượng điện của hệ thống.

Ông Lê Văn Lực, Cục phó Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo cho biết, nếu thay 100 MW nhiệt điện than tương đương 7 tỷ kWh/năm (giá điện 1.600 đồng/kWh) bằng nhiệt điện khí LNG (giá điện 2.100 đồng/kWh) sẽ tăng chi phí phát điện thêm khoảng 3.500 tỷ đồng/năm.

Không chỉ tại Việt Nam, mà tại nhiều quốc gia, nhiệt điện than cũng đang được xem là xương sống ngành công nghiệp điện. Ông Bae Youngjin – Trưởng ban phát triển dự án, Khối dự án nước ngoài thuộc Tập đoàn Điện lực Hàn Quốc - tập đoàn quốc doanh lớn nhất Hàn Quốc, với 6 tổng công ty phát điện, giữ 70% công suất phát điện tại Hàn Quốc cho hay, nhiệt điện than và điện hạt nhân là nền tảng của ngành công nghiệp điện của Hàn Quốc.

“Dân số của Việt Nam gấp đôi Hàn Quốc nhưng công suất nhiệt điện than chỉ bằng 1/3. Về vấn đề môi trường, các nhà máy nhiệt điện than hiện nay đều đã có thể sử dụng công nghệ để lọc bụi, khí thải, nước thải… Nguyên liệu được tái chế sử dụng 100% làm vật liệu xây dựng”, ông Bae Youngjin nói.

Nguyên nhân chính khiến trong thời gian qua, nhiều ý kiến phản đối, “tẩy chay” nhiệt điện than, chính là lo ngại đến yếu tố môi trường của các dự án này.

Theo ông Phạm Anh Dũng, Phó Vụ trưởng Vụ Thẩm định đánh giá tác động môi trường – Tổng Cục Môi trường (Bộ Tài nguyên Môi trường), nguồn thải từ nhiệt điện than gồm có khí thải lò hơi; nước thải công nghiệp, sinh hoạt và nước làm mát và chất thải rắn thông thường (bao gồm tro, xỉ), nguy hại. Hiện đã có nhiều văn bản pháp luật quy định về vấn đề này và các nhà máy cơ bản đã làm rất tốt. Đặc biệt là việc thực hiện quan trắc liên tục khí thải của nhà máy và truyền số liệu về Sở Tài nguyên Môi trường để giám sát, thực hiện quan trắc liên tục (Clo dư, pH, lưu lượng) tại cửa xả để giám sát chất lượng nước làm mát.

Ông Dũng cũng đánh giá cao mô hình của Nhiệt điện Vĩnh Tân 2 (EVN) ngoài việc tuân thủ các quy định, nhà máy còn công bố công khai thông tin, mời các cơ quan quản lý, người dân tham quan, giám sát.

Theo các chuyên gia, nhiệt điện than với công nghệ cao, hiện đại, thân thiện môi trường vẫn mang lại nhiều lợi ích cho hệ thống điện vì diện tích chiếm đất ít, sản lượng điện lớn, ổn định, giá thành sản xuất hợp lý hơn các nguồn điện khác (giá nhiệt điện than thấp chỉ sau thủy điện). Bên cạnh đó, vấn đề môi trường đã và đang được kiểm soát, giám sát chặt chẽ bởi Chính phủ, các Bộ ngành cũng như các tổ chức xã hội và nhân dân nơi có dự án.

Theo ông Nguyễn Tân Bình, Trưởng ban Khoa học công nghệ - Môi trường Tập đoàn Điện lực Việt Nam, hiện nay, các nhà máy nhiệt điện than của EVN đang sử dụng công nghệ hiện đại không thua kém các nhà máy trong khu vực và trên thế giới, đáp ứng tốt các yêu cầu về môi trường. Điều này đã được Trung tâm năng lượng than Nhật Bản (JCOAL) đánh giá cao tại Hội nghị bàn về phát triển nhiệt điện than với công nghệ hiệu suất cao, thân thiện môi trường tổ chức đầu năm 2018.

Cùng với đó, các giải pháp về môi trường luôn được áp dụng đồng bộ, tuân thủ nghiêm ngặt bảo vệ môi trường, vận hành hiệu quả và giảm thiểu tối đa phát thải ra môi trường xung quanh. Hiện nay, các kết quả đo đạc, phân tích cho thấy phát thải của các nhà máy thường thấp hơn nhiều lần so với quy chuẩn môi trường quy định.

Tình hình tiêu thụ tro xỉ đối với các nhà máy nhiệt điện than được EVN xử lý tương đối tốt. Nhiều đối tác liên hệ với các nhà máy để tiêu thụ tro xỉ trong các lĩnh vực phụ gia bê tông, phụ gia xi măng, gạch không nung…

EVN cũng cam kết phối hợp cùng với các đối tác, đề xuất ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn, hướng dẫn liên quan tới thu gom, vận chuyển và tái sử dụng tro xỉ. Tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị có giải pháp tái sử dụng tro xỉ để sản xuất các sản phẩm tiếp cận nguồn nguyên liệu tro xỉ tại các nhà máy nhiệt điện than của EVN. Hỗ trợ và ưu tiên hợp tác với các đối tác có mục tiêu đầu tư sử dụng tro xỉ dài hạn trên cơ sở cạnh tranh, công khai, minh bạch.

Bên cạnh đó đại diện Tập đoàn Điện lực Việt Nam cũng khẳng định các giải pháp được Tập đoàn thực hiện trong đảm bảo an toàn môi trường, quản lý môi trường một cách công khai, minh bạch. Đồng thời tuyên truyền phổ biến các thông tin về môi trường cho người dân khu vực xung quanh nhà máy nhiệt điện than.

Kim Dung

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực