Biểu tượng cao đẹp của tình hữu nghị có một không hai

Thứ tư, 30/10/2019 09:35
(ĐCSVN) - Kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam, nhìn lại chặng đường đã qua, chúng ta tự hào về mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, được tôi luyện và hun đúc bằng công sức và xương máu của nhiều anh hùng, liệt sĩ...
Ngày 30/10/1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định: “Các lực lượng quân sự của Việt Nam chiến đấu và công tác giúp Lào tổ chức thành hệ thống riêng và lấy danh nghĩa là Quân tình nguyện”. Đây là mốc lịch sử đánh dấu bước phát triển và trưởng thành của các lực lượng quân sự trên chiến trường Lào.

Bộ đội tình nguyện Việt Nam chia tay các bạn Lào trước khi trở về nước (Ảnh tư liệu).

Nói về tình nghĩa đặc biệt giữa hai Đảng, hai dân tộc, hai quân đội Việt Nam và Lào, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã có những câu thơ bất hủ: “Thương nhau mấy núi cũng trèo; mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua. Việt - Lào hai nước chúng ta; tình sâu hơn nước Hồng Hà - Cửu Long”. Hoàng thân Xu-pha-nu-vông đã nhận xét: "Tình hữu nghị Việt – Lào cao hơn núi, dài hơn sông, rộng hơn biển cả, sáng hơn trăng rằm, ngát hương thơm hơn đoá hoa nào thơm nhất".

Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng gần gũi, cùng chung sống trên bán đảo Đông Dương và đã có truyền thống từ lâu đời. Hơn một thế kỷ dưới ách thống trị, đô hộ của thực dân đế quốc, hai dân tộc đã gắn bó với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung. Đảng Cộng sản Đông Dương do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, sau này là Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng của hai dân tộc Việt Nam và Lào. Từ những nét tương đồng về văn hoá giữa hai dân tộc, từ việc luôn sát cánh bên nhau chiến đấu chống kẻ thù chung và xây dựng đất nước đã góp phần xây đắp nên tình đoàn kết keo sơn, thuỷ chung, son sắt Việt – Lào, mối quan hệ đặc biệt hữu nghị, trong sáng, mẫu mực tạo thành truyền thống quý báu, một sức mạnh vô địch, là nhân tố góp phần tạo nên thắng lợi của cách mạng hai nước.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của hai dân tộc, nhân dân hai nước Việt Nam - Lào đã có sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Sự ra đời của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ngày 2/9/1945) và Chính phủ Lào Itxala (ngày 12/10/1945) là cơ sở đưa tình đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai nước Việt Nam - Lào lên tầm liên minh chiến đấu.

Ngay sau khi giành được chính quyền, Chính phủ hai nước đã ký Hiệp ước tương trợ Lào - Việt (ngày 16/10/1945) và Hiệp định về tổ chức Liên quân Lào - Việt (ngày 30/10/1945). Đó là những văn kiện chính thức đầu tiên tạo cơ sở pháp lý để hai nước Việt Nam, Lào hợp tác và đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung.

Từ năm 1948, lực lượng quân sự của Việt Nam tại Lào đã từng bước được tổ chức thành các đơn vị độc lập với quy mô cấp đại đội, tiểu đoàn và trung đoàn. Ngày 30/10/1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định: “Các lực lượng quân sự của Việt Nam chiến đấu và công tác giúp Lào tổ chức thành hệ thống riêng và lấy danh nghĩa là Quân tình nguyện”. Đây là mốc lịch sử đánh dấu bước phát triển và trưởng thành của các lực lượng quân sự trên chiến trường Lào; khẳng định đường lối, quan điểm đúng đắn của Đảng ta trong thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Ngày 30/10/1949 được lấy làm Ngày truyền thống Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam tại Lào.

Tháng 4/1950, Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh quyết định thống nhất các lực lượng Quân tình nguyện hoạt động trên chiến trường Bắc Lào thành ba phân khu (A, B và C), được biên chế thành các trung đoàn, tiểu đoàn và đại đội. Sau thắng lợi của chiến dịch Biên giới Thu - Đông 1950 ở Việt Nam, bước sang năm 1951, theo thỏa thuận của lãnh đạo hai nước Việt Nam - Lào, Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh tiếp tục tăng cường cán bộ và bộ đội tình nguyện sang chiến trường Lào, đưa tổng quân số tăng lên khoảng 12.000 người.

Tháng 4/1951, Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh quyết định thống nhất các lực lượng Quân tình nguyện ở Bắc Lào và Tây Lào, thành lập Ban cán sự Đảng và Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Mặt trận Thượng Lào. Về mặt tổ chức, Quân tình nguyện Mặt trận Thượng Lào có 4 đoàn: 80, 81, 82 và 83 (mỗi đoàn tương đương một trung đoàn) phụ trách hoạt động giúp bạn trên một địa bàn.

Trong những năm 1954 - 1959, phương thức hợp tác giúp đỡ của Việt Nam đối với cách mạng Lào có sự thay đổi. Ta chủ trương chuyển từ chế độ Quân tình nguyện (trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp) sang chế độ cố vấn quân sự (từ năm 1959 gọi là Chuyên gia quân sự). Về mặt quân sự, Trung ương Đảng ta đặt chế độ cố vấn tách khỏi hệ thống Quân tình nguyện, thực hiện ở ba cấp: Bộ Quốc phòng, Trường quân chính và các đơn vị, địa phương.

Từ năm 1960, khi đế quốc Mỹ can thiệp ngày càng trắng trợn vào công việc nội bộ của Lào, thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, mối quan hệ đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung của quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam - Lào được củng cố và phát triển ngày càng sâu đậm.

Theo thỏa thuận giữa hai Đảng, hai Chính phủ, sau năm 1965, Việt Nam tiếp tục tăng cường các đơn vị tình nguyện và chuyên gia giúp bạn. Quân tình nguyện Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với quân và dân các bộ tộc Lào cùng các đơn vị chủ lực từ Việt Nam sang mở các chiến dịch lớn đánh bại các cuộc hành quân của địch, tiêu diệt các căn cứ phỉ ở Thượng Lào.

Năm 1969, đế quốc Mỹ thực hiện “Chiến tranh đặc biệt tăng cường” ở Lào, yêu cầu nhiệm vụ giúp cách mạng Lào đòi hỏi ngày càng lớn. Để đáp ứng với tình hình mới của bạn, Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng Việt Nam đã chủ động chấn chỉnh tổ chức biên chế các đoàn Quân tình nguyện và Chuyên gia đang làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào. Khi đế quốc Mỹ và ngụy quân liều lĩnh mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương (năm 1970), sự phối hợp chiến đấu giữa lực lượng vũ trang Việt Nam và Lào tiếp tục có bước phát triển mới.

Theo đề nghị của Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng Lào, Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng Việt Nam lần lượt cử các đoàn cố vấn, chuyên gia quân sự 100, 959, 463, 565 và các đoàn Quân tình nguyện 335, 316, 763, 766, 866, 968 sang chiến trường Lào, giúp bạn xây dựng lực lượng, củng cố vùng giải phóng, tiến hành cuộc kháng chiến anh dũng, trường kỳ, gian khổ, hy sinh với bao nhiêu chiến dịch lớn nhỏ để đập tan mọi âm mưu, sách lược của bọn đế quốc và bè lũ tay sai.

Với tinh thần quốc tế vô sản và thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam đã có những đóng góp to lớn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cùng với quân đội và nhân dân các bộ tộc Lào giành thắng lợi hoàn toàn trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945 - 1975). Không chỉ giúp bạn gây dựng cơ sở chính trị; xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang và các căn cứ cách mạng, Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam còn góp phần giúp bạn phát triển chiến tranh nhân dân đáp ứng yêu cầu kháng chiến; huấn luyện lực lượng vũ trang, tăng cường công tác chính trị, xây dựng Đảng; đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ đủ sức đảm đương nhiệm vụ của cách mạng Lào.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, sau khi lực lượng kháng chiến Lào chuyển từ đô thị về các vùng nông thôn, miền núi và sang vùng biên giới Thái Lan, cơ sở chính trị quần chúng còn rất ít. Các đoàn Quân tình nguyện phải phân tán lực lượng, thành lập các đội công tác cơ sở, đội vũ trang tuyên truyền đi vào các bản mường tuyên truyền, giáo dục đường lối kháng chiến, giác ngộ và tổ chức nhân dân vào các hội Itxala. Trong điều kiện hết sức khó khăn, cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyên đã nêu cao ý chí quyết tâm, sẵn sàng hy sinh, thực hiện “ba cùng với dân, kiên trì bám trụ, xây dựng cơ sở cách mạng. Đặc biệt, Đoàn 83 Quân tình nguyện đã cùng với bạn tuyên truyền, gây dựng cơ sở cách mạng ở Vientiane (Viêng Chăn) từ không đến có, từ một vài cơ sở đầu tiên ở vùng Nặm Tòn phát triển lan rộng thành 5 khu căn cứ cách mạng liên hoàn trong lòng địch và một số cơ sở kháng chiến ở các địa phương.

Sự giúp đỡ tích cực của các đoàn Quân tình nguyện và những nỗ lực to lớn của bạn, vào thời điểm cuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cơ sở cách mạng và căn cứ kháng chiến, vùng giải phóng của Lào được mở rộng, trong đó có nhiều khu căn cứ kháng chiến Lào đã nối liền nhau, mở thông với các vùng căn cứ ở Tây Bắc, các vùng hậu phương của Liên khu 4, Liên khu 5 (Việt Nam), tạo thành một thế kháng chiến liên hoàn từ Bắc Lào, Trung Lào đến Hạ Lào, tạo tiền đề quan trọng thúc đẩy cuộc kháng chiến chống Pháp ở Lào phát triển.

Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam đã giúp bạn về quân sự, xây dựng lực lượng vũ trang, trong đó chú trọng xây dựng Quân đội Pa-thét Lào, làm nòng cốt cho các lực lượng vũ trang và nhân dân các bộ tộc Lào kháng chiến; quan tâm, giúp đỡ xây dựng các đơn vị trung lập yêu nước cùng đoàn kết phối hợp chiến đấu với Quân đội Pa-thét Lào. Trong những năm 1954 - 1965, các Đoàn 100, 959, 463, 565 làm nhiệm vụ chuyên gia (cố vấn) quân sự đã vận dụng sáng tạo kinh nghiệm để giúp bạn xây dựng cơ cấu tổ chức lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân phù hợp với hoàn cảnh, tình hình cách mạng Lào.

Tháng 2/1966, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam ra chỉ thị cho các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam tại Lào xây dựng dân quân du kích. Chỉ thị nêu rõ “giúp bạn một cách toàn diện bao gồm cả hệ thống chỉ đạo, chỉ huy và các vấn đề về đường lối, phương châm, chế độ, chính sách thuộc dân quân du kích”. Đây cũng là nhiệm vụ chủ yếu của các đoàn, tổ chuyên gia quân sự. Suốt những năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cùng với việc xây dựng lực lượng vũ trang, Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam thường xuyên giúp bạn xây dựng các khu căn cứ, vùng giải phóng, làm chỗ dựa để tiến hành các cuộc kháng chiến lâu dài.

Với phương châm giúp bạn xây dựng thực lực cách mạng, tiến tới tự đảm đương nhiệm vụ, trong kháng chiến chống thực dân Pháp, các đoàn Quân tình nguyện Việt Nam đã sớm hỗ trợ bạn xây dựng, huấn luyện lực lượng vũ trang cách mạng chiến đấu, bảo vệ căn cứ kháng chiến. Lúc đầu, ta đưa bạn vào các đơn vị của mình để kèm cặp, dìu dắt, tổ chức các đơn vị hỗn hợp Việt - Lào, Lào - Việt, sau đó tách ra thành các đơn vị độc lập, phân công nhiệm vụ phù hợp để rèn luyện, nâng cao trách nhiệm và trình độ mọi mặt cho các đơn vị vũ trang cách mạng Lào.

Trên cơ sở lực lượng dân quân du kích và phong trào chiến tranh du kích phát triển, ta giúp bạn xây dựng, huấn luyện bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực. Nhờ vậy, đến những năm 1951 - 1952, cách mạng Lào đã xây dựng được lực lượng vũ trang ba thứ quân, gồm đại đội chủ lực của khu; đại đội bộ đội tỉnh, trung đội vũ trang huyện và dân quân du kích ở bản mường.

Cùng với việc giúp bạn xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, các đoàn Quân tình nguyện hết sức coi trọng nhiệm vụ bồi dưỡng, đào tạo cán bộ cho bạn. Trong kháng chiến chống Mỹ, Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam đã từng bước giúp bạn huấn luyện nâng cao trình độ quân sự với 4 kỹ thuật lớn, trong đó chú trọng kỹ thuật bắn súng và nguyên tắc vận dụng các hình thức chiến thuật đánh địch trong mọi tình huống; tích cực giúp bạn mở các lớp huấn luyện cán bộ ngắn ngày về chính trị, quân sự, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cho bạn ở từng giai đoạn cách mạng.

Trong suốt 30 năm (1945 - 1975), quân đội ta cùng quân đội và nhân dân các bộ tộc Lào đã kề vai chiến đấu, từng bước đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đặc biệt, lực lượng Quân tình nguyện Việt Nam đã cùng quân và dân bạn chiến đấu bảo vệ tuyến đường vận tải chiến lược - Đường Hồ Chí Minh phía Tây Trường Sơn; xây dựng chiến trường Lào thành chiến trường phối hợp với các hướng chiến trường khác, góp phần vào thắng lợi chung của cách mạng ba nước Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia. Đầu năm 1951, Đoàn 80 Quân tình nguyện đã cùng với một số đơn vị Quân đội Lào Itxala tổ chức nhiều trận phục kích địch. Những trận đánh nhỏ lẻ bằng các hình thức tập kích, phục kích cùng những trận chống địch càn quét của Quân tình nguyện và Quân đội Lào Itxala những năm 1951- 1952 và đầu năm 1953 thắng lợi đã mở ra khả năng chuyển sang đánh nhiều trận liên tiếp; đồng thời phối hợp với các đơn vị quân chủ lực Việt Nam sang mở những chiến dịch lớn. Đó là các chiến dịch Thượng Lào (13/4 - 18/5/1953), Trung Lào (21/12/1953 - 4/1954), Thượng Lào (29/1 - 13/2/1954), Hạ Lào - Đông Bắc Cam-pu-chia (31/1 - 4/1954), đã tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, mở rộng và củng cố các vùng giải phóng ở Thượng Lào, Trung Lào và Hạ Lào, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn bình định của địch, âm mưu chia rẽ tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt giữa quân đội và nhân dân hai nước Lào - Việt Nam.

Với vai trò nòng cốt, trong kháng chiến chống Mỹ, Quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục chủ động phối hợp với lực lượng vũ trang Pathet Lào đẩy mạnh các hoạt động tác chiến ở vùng Trung và Hạ Lào, cùng thực hiện thắng lợi chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân Lam Sơn 719 của Mỹ - ngụy tại khu vực Đường 9 - Nam Lào.

Những thắng lợi về quân sự của quân và dân hai nước trong các Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào (1971), Chiến dịch Cánh Đồng Chum - Mường Sủi (4/1972), Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng (11/1972)... làm tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giành thắng lợi từng bước về quân sự, hỗ trợ cuộc đấu tranh chung của nhân dân nước bạn Lào, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, tiến tới đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt tăng cường” của đế quốc Mỹ ở Lào; góp phần thúc đẩy tình thế, cùng với các đòn tiến công, nổi dậy của quân và dân Nam bộ, Tây Nguyên trên chiến trường chính Việt Nam làm cho địch thất bại từng bước, tiến tới thất bại hoàn toàn.

Nhờ chuẩn bị chiến trường chu đáo, trong các chiến dịch tiến công trên chiến trường Lào những năm 1962 - 1972, lực lượng Quân tình nguyện, quân chủ lực của ta và bạn tham gia ngày càng lớn. Ngoài ra, hàng nghìn đội dân quân du kích và dân công đã tham gia phục vụ trên địa bàn chiến dịch. Chiến trường Lào trở thành chiến trường phối hợp rất đắc lực với chiến trường chính, tạo nên những thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia.

Thực hiện nhiệm vụ quốc tế trên chiến trường Lào trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam đã chịu đựng vô vàn khó khăn, gian khổ, hy sinh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, lập nhiều chiến công trên chiến trường Lào. Nhiều tập thể và cá nhân thuộc Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam đã được Đảng, Nhà nước Lào tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý. Cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam được nhân dân các bộ tộc Lào tin yêu, coi như con em của bộ tộc mình. Những đóng góp to lớn đó đã góp phần quan trọng trong xây dựng, củng cố vững chắc tình đoàn kết đặc biệt giữa hai nước và hai quân đội Việt Nam - Lào.

Kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam là dịp để chúng ta cùng nhìn lại những chặng đường đã qua, chúng ta rất phấn khởi và tự hào về mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào được tôi luyện và hun đúc bằng công sức và xương máu của nhiều anh hùng, liệt sĩ, bằng sự hy sinh, phấn đấu của nhiều thế hệ người Việt Nam và người Lào; đã trở thành mối quan hệ quốc tế mẫu mực, thuỷ chung, trong sáng, là nguồn sức mạnh và nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng ở mỗi nước, và tài sản vô giá của hai dân tộc.

Chúng ta tự hào nhận thấy rằng, trong thời gian qua, quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào đã không ngừng phát triển trong tất cả các lĩnh vực. Lãnh đạo hai Ðảng, hai Nhà nước đã khẳng định, sẽ cùng nhau tiếp tục phấn đấu thực hiện có kết quả các thoả thuận của lãnh đạo cấp cao hai Ðảng, hai nước đã thống nhất; đôn đốc các bộ, các ngành, các địa phương và các đoàn thể xã hội của hai nước tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam-Lào, trên tinh thần độc lập, tự chủ và ý chí tự lực, tự cường, phát huy thế mạnh và khả năng của mỗi bên, bổ sung cho nhau, đồng thời dành cho nhau sự ưu tiên, ưu đãi hợp lý, không ngừng nâng cao hiệu quả, chất lượng hợp tác vì lợi ích của nhân dân mỗi nước.

Kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam cũng là dịp để hai nước chúng ta đánh giá đúng những thành tựu và tiềm năng, từ đó xác định các biện pháp nhằm tăng cường hơn nữa mối quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai dân tộc; góp phần đắc lực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển ở mỗi nước, cũng như mục tiêu chung vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới./.

Mạnh Hùng

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực